Cụ thể, trả lời báo chí liên quan đến
việc cơ quan nào chịu trách nhiệm về việc đổ sập nhà 107 Trần Hưng Đạo,
ông Trần Việt Trung - Phó Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội cho rằng, Tổng
Công ty Đường sắt Việt Nam phải có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan
chức năng trong việc giải quyết, khắc phục và xử lý sự cố, chịu trách
nhiệm giải quyết sự cố công trình theo quy định của pháp luật, theo
trách nhiệm của chủ quản lý sử dụng công trình.
Báo cáo của Sở Xây dựng Hà Nội nêu rõ,
nhà 107 phố Trần Hưng Đạo có nguồn gốc là nhà vắng chủ được Nhà nước
quản lý. Từ năm 1955, Tổng cục Đường sắt tiếp nhận, quản lý và khai thác
ổn định khu vực Ga Hàng Cỏ (trong đó có khu nhà 107 phố Trần Hưng Đạo).
Hiện Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đang trực tiếp quản lý, sử dụng
ngôi nhà này.
Tuy nhiên, khi trả lời báo chí về vụ
việc trên, ông Đoàn Duy Hoạch, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Đường sắt
Việt Nam, cho biết ngôi nhà cổ bị sập nằm trong diện an toàn và chưa
từng có cơ quan chức năng nào cảnh báo về mức độ nguy cấp của tòa nhà.
Theo ông Hoạch, từ năm 1955 tổng công ty được giao tiếp quản và sử dụng
căn nhà 107 Trần Hưng Đạo. Sau đó, tổng công ty giao cho Ban quản lý dự
án đường sắt khu vực 1 sử dụng cho đến nay. Năm 1999 tòa nhà này đã được
sữa chữa chống dột, sơn sửa, gia cố. Quá trình sử dụng công ty không
thấy có vấn đề xuống cấp, chỉ bị dột nên hàng năm công ty vẫn tổ chức
duy tu, bảo dưỡng. Tuy nhiên, đến nay chưa có cơ quan chức năng nào cảnh
báo về mức độ nguy hiểm của tòa nhà. Trái lại, tòa nhà này được xác
định thuộc danh mục biệt thự cổ do TP Hà Nội quản lý, đặc biệt chưa
thuộc diện xuống cấp nghiêm trọng.
Trao đổi với PV K
iến Thức về
sự cố sập nhà 107 Trần Hưng Đạo, Tiến sĩ Phạm Sỹ Liêm, Phó chủ
tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ
Xây dựng cho rằng, có một thực trạng, hiện nay chúng ta đang quản lý
chết, nghĩa là không ai sờ đến hồ sơ lưu trữ của các căn nhà cổ, nên khó
chú ý đến niên hạn.
Ai chịu trách nhiệm?
Để làm rõ nguyên nhân sự cố, hiện các
cơ quan chuyên môn sẽ tổ chức giám định nguyên nhân theo quy định pháp
luật. Bản thân Sở Xây dựng Hà Nội cũng đề nghị giao Viện Khoa học công
nghệ và Kinh tế Xây dựng Hà Nội tổ chức giám định, xác định nguyên nhân
sự cố, đánh giá mức độ ảnh hưởng đến công trình và các công trình liền
kề, báo cáo UBND Thành phố để chỉ đạo, giải quyết. Tuy nhiên dư luận cho
rằng, nếu sự cố này xảy ra do nhà xuống cấp mà các cơ quan chức năng
liên quan không kiểm tra kịp thời thì bản thân cơ quan chức năng này
cũng phải chịu trách nhiệm. Ngoài ra, bản thân Tổng Công ty Đường sắt
Việt Nam, đơn vị tiếp quản và hiện đang quản lý, sử dụng cũng phải chịu
trách nhiệm về sự cố này.
Trao đổi với PV Kiến Thức,
Luật sư Nguyễn Hồng Thái, Giám đốc Công ty Luật Quốc tế Hồng Thái và
đồng nghiệp nhận định, việc xem xét trách nhiệm đơn vị liên quan đến vụ
việc phụ thuộc vào nguyên nhân sập do đâu. trách nhiệm quản lý thì rõ
ràng phải chịu trách nhiệm nhưng chịu đến đâu cần phải điều tra xem
nguyên nhân thế nào.
“Theo như trả lời của đại diện Tổng
công ty Đường sắt Việt Nam, ngôi nhà cổ đã được sữa chữa chống dột, sơn
sửa, gia cố vào năm 1999 và hàng năm công ty vẫn tổ chức duy tu, bảo
dưỡng. Các cơ quan chức năng cần làm rõ xem tòa nhà có bị thay đổi kết
cấu trong quá trình sửa chữa hay không. Đơn vị này đã duy tu, bảo dưỡng
những gì, ai đánh giá đc mức độ duy tu bảo dưỡng? Nếu cố tình thay đổi
kểt cấu để cho thuê thì đơn vị này phải hoàn toàn chịu trách nhiệm”,
Luật sư Thái nhìn nhận.
“Bên cạnh đó, Sở Xây dựng Hà Nội cũng
phải chịu trách nhiệm một phần bởi đây là đơn vị quản lý về xây dựng.
Hàng năm phải có kế hoạch kiểm tra và đánh giá niên đại, mức độ an toàn
các toà nhà. Nhưng dường như Sở Xây dựng chỉ có một việc cấp phép thôi
sao? Chức năng quản lý các nhà cũ, nhà cổ, nhà xuống cấp thuộc về ai?”,
Luật sư Thái cũng đặt câu hỏi về trách nhiệm của Sở Xây dựng Hà Nội.
Luật sư Thái cho rằng, cần làm rõ nguyên nhân vụ sập nhà,
sau đó truy trách nhiệm những đơn vị liên quan. Nếu sai do cơ quan quản
lý thì phải xem xét trách nhiệm trực tiếp của các cá nhân xem có cố ý
làm trái quy định hay không? Cùng với đó, vụ việc này cũng đặt ra vấn đề
về các tòa nhà cổ khác, hiện giờ ai quản lý và đánh giá hiện trạng. Cần
xem xét tổng thể các vấn đề tại các ngôi nhà cổ khác để tránh những
trường hợp tương tự.
Về việc bồi thường thiệt hại của các nạn nhân trong vụ sập nhà,
Luật sư Thái cho rằng cần xem xét nguyên nhân và trách nhiệm vụ việc là
dân sự hay hình sự. Nếu đơn vị nào sai bên đó phải thực hiện chính sách
bồi thường cho các nạn nhân của vụ việc theo quy định của pháp luật.
Luật sư Thái dẫn giải, việc bồi thường
thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm được quy định tại Điều 612
Bộ luật Dân sự năm 2005, cụ thể là:
- Trong trường hợp người bị thiệt hại
mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi
thường cho đến khi chết.
- Trong trường hợp người bị thiệt hại
chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống
được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau đây:
+ Người chưa thành niên hoặc người đã
thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng
tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu
nhập đủ nuôi sống bản thân;
+ Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.
Bồi thường thiệt hại bao gồm bồi
thường thiệt hại về vật chất và bồi thường thiệt hại về tinh thần được
phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có điều kiện sau:
- Có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại là những tổn thất thực tế
được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức.
+ Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ làm
phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi thường,
chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm
sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ.
+ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy
tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại,
thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm hại.
+ Thiệt hại do bị tổn thất về tinh
thần. Bộ luật Dân sự quy định: Toà án có thể buộc người xâm hại "bồi
thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt
hại, người thân thích gần gũi của nạn nhân".
Luật sư Thái cũng cho biết, những quy
định này chỉ định hướng nhưng chưa có tính định lượng trong việc bồi
thường thiệt hại. Bởi vậy, Toà án là người phải xác định trong trường
hợp nào được bồi thường, bồi thường bao nhiêu, bồi thường cho ai...Ví
dụ: Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài
sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi
ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là
những thiệt hại vật chất của người bị thiệt hại
- Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân,
tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác,
không được thực hiện bất cứ hành vi nào "xâm phạm" đến các quyền đó. Bởi
vậy, Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về thiệt hại do sức khoẻ
bị xâm phạm. Việc "xâm phạm" mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm
pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt
trong từng cộng đồng dân cư...
- Có lỗi của người gây thiệt hại.
Người gây thiệt hại phải chịu trách
nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của
người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hay
vô ý.
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một
người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà
vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt
hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là một người không
thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải
biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có
thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và
trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có
lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy,
những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
sẽ không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó.
Hải Ninh
http://kienthuc.net.vn/soi-xet/sap-nha-co-tran-hung-dao-ai-chiu-trach-nhiem-chinh-563332.html