Hotline: 098.203.3335
TRANH TỤNG - TỐ TỤNG HÌNH SỰ - DÂN SỰ - HÀNH CHÍNH - ĐẤT ĐAI - HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
 

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CÔNG TY LUẬT TNHH QUỐC TẾ HỒNG THÁI VÀ ĐỒNG NGHIỆP


Trụ sở chính:
Trụ sở chính: 38LK9, Tổng cục V, Bộ Công an, Tân Triều, Hà Nội

098 203 3335 (24/7)
luathongthai@gmail.com

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tạm giữ

(Số lần đọc 1238)
Như chúng ta đã biết, tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn được sử dụng trong tố tụng hình sự. Đây được coi là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc trong số các biện pháp ngăn chặn khác được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Bởi nếu việc áp dụng nghiêm chỉnh, đúng và chính xác những quy định của pháp luật về biện pháp tạm giữ thì sẽ góp phần rất quan trọng cho việc thực hiện được tốt các trình tự tố tụng hình sự. Phát hiện và tìm ra được bằng chứng, chứng cứ phạm pháp để xử lý kịp thời và công minh đối với kẻ có tội, không làm oan người vô tội, đồng thời đây cũng là biện pháp ngăn chặn kịp thời hữu hiệu nhất đối với những người chuẩn bị phạm tội hoặc những người phạm tội thì sẽ không tiếp tục phạm tội hoặc phạm tội mới.

1. Khái niệm chung về biện pháp ngăn chặn tạm giữ

    Tùy thuộc vào mục đích áp dụng, đối tượng áp dụng hoặc những tiêu chuẩn khác mà các nhà làm luật phân chia các biện pháp cưỡng chế thành những nhóm khác nhau và trong mỗi nhóm lại có những biện pháp khác nhau, với những trình tự thủ tục khác nhau, bao gồm 2 nhóm chính: Nhóm các biện pháp ngăn chặn và nhóm các biện pháp điều tra. Và theo Điều 79 BLTTHS 2003 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì nhóm các biện pháp ngăn chặn bao gồm các biện pháp sau: Bắt (bao gồm bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, bắt người bị truy nã và bắt bị can bị cáo để tạm giam), tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Như vậy, tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS hiện hành.

   Và theo quy định tại Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì: “ Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và những người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã.(3)

2. Mục đích tạm giữ

    Mục đích của biện pháp ngăn chặn tạm giữ là nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc hành vi cản trở việc điều tra khám phá tội phạm của người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền đủ thời gian để xác định tính chất, mức độ của hành vi; nhân thân của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc các quyết định pháp lý cần thiết khác như: tạm giam, áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hay trả tự do cho người bị bắt…

Chẳng hạn như, mục đích của tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú là để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi chốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người  phạm tội, tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ tài liệu, bước đầu xác định tính chất hành vi của người bị tạm giữ.

3. Đối tượng tạm giữ

   Trước đây, tạm giữ cũng được coi là biện pháp cưỡng chế nhà nước và được quy định tại Sắc luật số 103 – SL/005 ngày 20-5-1957 về bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân.

Trong BLTTHS năm 2003, tạm giữ là biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người bị bắt trốn tránh việc điều tra; xác minh tội phạm và để quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự (khởi tố bị can) đối với họ. Do đó, so với quy định tại Điều 68 BLTTHS năm 1988, thì đối tượng có thể bị tạm giữ được quy định tại Điều 86 BLTTHS năm 2003 rộng hơn và bao gồm: người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp; người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang; người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã.

 Nhưng sau khi bị bắt trong các trường hợp nêu trên, người bị bắt chưa chắc đã bị tạm giữ ví dụ như trong trường hợp người bị bắt phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động, biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra thì không cần phải tạm giữ. Còn đối với bắt người trong trường hợp khẩn cấp thường phải tạm giữ vì trong hầu hết các trường hợp khi quyết định bắt khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã xác định cần phải ngăn chặn việc người đó trốn hoặc cản trở điều tra. Hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã việc tạm giữ chỉ đặt ra khi xét thấy cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt. Bởi theo Khoản 1 Điều 83 BLTTHS năm 2003 thì: “Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”. Qua đó ta có thể thấy rằng, biện pháp tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn độc lập, việc quy áp dụng biện pháp này phải có những căn cứ  nhất định chứ không phụ thuộc vào biện pháp bắt, hay nói cách khác, biện pháp tạm giữ không phải là biện pháp ngăn chặn bắt buộc phải áp dụng sau khi bắt người. Vấn đề đặt ra là khi nào cơ quan có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ? Còn khi nào không cần thiết tạm giữ? Do đó chúng ta cần quán triệt được mục đích của việc tạm giữ trong TTHS. Mặc dù trong BLTTHS không quy định rõ mục đích của việc tạm giữ nhưng qua các điều luật về tạm giữ thì chúng thấy việc tạm giữ người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người tự thú, đầu thú là nhằm có điều kiện để tiếp tục xác minh thêm về hành vi phạm tội của người bị bắt, người ra tự thú, đầu thú để làm rõ thêm căn cứ của việc khởi tố vụ án cũng như khởi tố bị can đối với người họ. Tinh thần này cũng đã được thể hiện qua các quy phạm tại các Điều như Điều 83 Điều 87 của BLTTHS. Khoản 3 Điều 87 quy định: “ Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ”. Như vậy sau khi bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang , hoặc khi người phạm tội ra đầu thú, tự thú thì họ có thể không bị tạm giữ trong các trường hợp sau đây:

- Các cơ quan có thẩm quyền xác đinh được ngay việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ.

- Ngay sau khi bắt người khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú các cơ quan có thẩm quyền đã xác định được đầy đủ căn cứ để có thể khởi tố vụ án hoặc khởi tố bị can đối với người bị bắt, người tự thú, đầu thú nên đã ra các quyết định khởi tố cần thiết và cũng đã xác định được ngay căn cứ để có thể tạm giam đối với họ nên đã gia lệnh tạm giam đối với bị can mà không cần tạm giữ. Hoặc ngay sau khi bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú đã xác định đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án và khởi tố bị can nên cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định tạm giữ, rồi sau khi đã ra quyết định khởi tố cần thiết nhưng xét thấy không cần thiết phải tạm giam bị can nên cơ quan có thẩm quyền để cho bị can được tại ngoại mà không cần thiết phải tạm giam bị can.

4. Thẩm quyền tạm giữ

    Khoản 2 Điều 86 BLTTHS quy định “ Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”. Theo khoản 2 Điều 86 quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì có bốn nhóm người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm những nhóm người sau đây:

- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp (gồm: cơ quan điều tra trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao)

- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.

- Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng.

- Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.

Theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện trở lên mới có quyền ra lệnh tạm giữ. Chính quyền và công an cấp xã, phường, thị trấn không có quyền tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự. Thực hiện quy định này, khi nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì UBND xã, phường hoặc thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải ngay người bị bắt đến cơ quan có thẩm quyền.

Như vậy, những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang. (7)

5. Thủ tục tạm giữ

    Như Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định thì việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Quyết định tạm giữ không đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của Viện Kiểm Sát trước khi thi hành. Nhưng “ Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

 Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, thời hạn tạm giữ ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ một bản.” (Khoản 3 Điều 86 BLTTHS năm 2003)

Căn cứ những quy định tại Điều 86 BLTTHS và xuất phát từ thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, đó là trên thực tế đã phát sinh thêm một số đối tượng như: những người đang bị truy nã khi bị bắt, người phạm tội tự thú, đầu thú cũng cần phải tạm giữ để chờ xử lý, và cũng phát sinh thêm một loại chủ thể cần có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ, đó là chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển, cũng như nghiên cứu về thẩm quyền, thủ tục, mục đích tạm giữ thì có thể đưa ra khái niệm về biện pháp ngăn chặn này như sau: “Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, do cơ quan và người có thẩm quyền theo pháp luật áp dụng đối với những người bị bắt  trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã, người phạm tội tự thú, đầu thú nhằm ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện cho việc xử lý tội phạm được chính xác và kịp thời”

Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây:

- Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt quả tang trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú.

- Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhỉệm hình sự;

- Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở công việc điều tra.(7)

6. Thời hạn tạm giữ

Theo Điều 87 BLTTHS năm 2003 thì:

 - Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Để đạt được mục đích của việc tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ lúc ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi Cơ quan điều tra nhận được người bị bắt.

- Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ nhưng không được quá ba ngày. Những trường hợp cần thiết là những trường hợp sự việc xảy ra có nhiều tình tiết phức tạp, việc xác minh phải thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau hoặc cần phải có thêm thời gian để làm rõ về hành vi, làm rõ căn cước, lý lịch của người bị tạm giữ.

- Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng cũng không được quá ba ngày. Đây thông thường là trường hợp đối với vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và một số vụ án hình sự khác có nhiều người tham gia, sự việc cần xác minh rất phức tạp mặc dù đã gia hạn tạm giữ lần thứ nhất vẫn chưa làm rõ được sự việc.

- Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Việc gia hạn tạm giữ chỉ có giá trị khi được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì cơ quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ sau khi hết hạn tạm giữ trước đó. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn.

- Khi hết thời hạn tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Đây là trường hợp không cần gia hạn tạm giữ hoặc đã gia hạn tạm giữ lần thứ nhất hoặc lần thứ hai nhưng vẫn không đủ căn cứ để xác định người bị tạm giữ đã thực hiện tội phạm thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

- Thời hạn tạm giữ được được tính trừ vào thời hạn tạm giam. Thời hạn tạm giữ dù ngắn nhưng lại hạn chế quyền tự do thân thể, tự do đi lại của công dân nên thời hạn tạm giữ được tính vào thời hạn tạm giam theo ngưyên tắc một ngày tạm giữ bằng một ngày tạm giam. Trường hợp người bị tạm giữ sau đó không bị tạm giam thì khi Tòa án quyết định hình phạt tù đối với bị cáo, thời hạn đã tạm giữ được trừ vào thời hạn phải chấp hành hình phạt tù theo nguyên tắc một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tù.

Việc tạm giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không có quy định khác về thời hạn tạm giữ.

Theo các quy định nêu trên, cách tính thời hạn trong TTHS đã quy định khi tính thời hạn theo ngày thì thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ, do vậy trong cách tính thời han tạm giữ, thời điểm ra lệnh tạm giữ chỉ có ý nghĩa để tính ngày bị tạm giữ chứ không có ý nghĩa tính giờ bị tạm giữ, nói cách khác mặc dù các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ vào lúc mấy giờ nhưng thời hạn tạm giữ chỉ hết vào lúc 24 giờ của ngày hết hạn. Việc BLTTHS quy định hai lần có thể gia hạn tạm giữ nhằm bảo đảm tính có căn cứ và cần thiết của việc tạm giữ, hạn chế hiện tượng tạm giữ tràn làn, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, do vậy đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải nhận thức rõ vấn đề này để bảo đảm áp dụng pháp luật được tốt.

Mời bạn đánh giá bài viết này!
Đặt câu hỏi
Báo giá vụ việc
Đặt lịch hẹn

Có thể bạn quan tâm?

Cách xác định thời điểm xét nâng bậc lương
Tháng 11/2011, bà Trần Thị Thu Giang (gianghlu89@…) được nhận vào Sở Công Thương làm việc theo chế độ hợp đồng, hưởng 75% lương bậc 1 hệ số 2,34. Tháng 12/2011, bà Giang thi và trúng tuyển công chức, đến tháng 5/2012, có quyết định tuyển dụng và đến tháng 11/2012, hết thời gian tập sự.
Phụ cấp thâm niên chỉ được tính khi có quyết định hết tập sự
Cô giáo Nguyễn Thị Lan Hương (Trường Tiểu học Lộc Thành, Bảo Lâm, Lâm Đồng) hỏi về cách tính hưởng phụ cấp thâm niên. Hỏi: Tháng 9/1995 tôi được Phòng GD&ĐT huyện Bảo Lâm ra quyết định điều động về giảng dạy trực tiếp ở trường tiểu học, hưởng lương 1,57, mã ngạch 15114 có đóng BHXH. Tháng 6/1998...
Hai người từng có mối quan hệ là bố dượng và con riêng của vợ có thể kết hôn với nhau được không?
Theo quy định tại điều 10 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 thì việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau:
Quy định về cầm cố tài sản
Cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 326 Bộ luật dân sự 2005). Cầm cố tài sản được quy định tại Bộ luật dân sự 2005 từ Điều 326 đến Điều 341, bao gồm các nội dung chính sau:
Những hợp đồng nào phải công chứng, chứng thực?
Theo quy định hiện hành của pháp luật, thì những hợp đồng dưới đây bắt buộc phải được cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực:
Án treo và điều kiện hưởng án treo
Án treo là một biện pháp chấp hành hình phạt tù và được quy định cụ thể tại Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao.
Chồng mắng chửi vợ có bị xử lý?
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2 Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 thì "Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm" là một hành vi bạo lực gia đình
Người chưa thành niên phạm tội có bị xử phạt tù chung thân, tử hình?
Theo quy định của Bộ luật hình sự thì "Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội"
Thủ tục thay đổi họ tên
Quy định về thế chấp tài sản
Quy định chung về thế chấp tài sản bao gồm các nội dung cơ bản về thế chấp, hình thức thế chấp, thời hạn thế chấp, quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp và bên nhận thế chấp, hủy bỏ và chấm dứt việc thế chấp tài sản và các nội dung khác liên quan bao gồm:
 
Tin nhiều người quan tâm
Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã được hưởng quyền và nghĩa vụ gì?
Hợp tác xã là gì? Liên hiệp hợp tác xã là gì? Quyền và nghĩa vụ của Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác...
 
Làm thẻ căn cước có phải về quê không ?
Thẻ căn cước công dân là giấy tờ tùy thân của công dân Việt Nam có giá trị chứng minh về căn cước...
 
Tài sản đứng tên một người, có phải là tài sản chung của vợ chồng
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản...
 
Trăn trở của bao cặp vợ chồng: Có nên ly hôn khi không còn tình cảm?
 
Nguyên nhân, thực trạng ly hôn hiện nay và đưa ra giải pháp hạn chế thực trạng này.
Hôn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp hài hòa lợi ích...
 

Thư viện video

Dành cho đối tác

Giới thiệu

Về chúng tôi

Công ty luật Quốc Tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp – Nơi các luật sư, chuyên gia tư vấn có trình độ cao, có kinh nghiệm nhiều năm trong các lĩnh vực tư vấn đầu tư, thuế – kế toán, sở hữu trí tuệ, tố tụng, lao động, đất đai…đảm nhiệm.

Kinh tế đang phát triển, xã hội có sự phân công lao động rõ ràng. Và chúng tôi hiện diện trong cộng đồng doanh nghiệp để đồng hành, chia sẻ, gánh vác và hỗ trợ các doanh nghiệp.

Chi tiết→

CÁC CHUYÊN VIÊN TƯ VẤN CỦA CHÚNG TÔI

luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn

Tiến Sĩ, Luật Sư Nguyễn Hồng Thái
Tiến sĩ - Luật sư tranh tụng hình sự, dân sự

Luật Sư Trần Anh Minh
Luật sư tranh tụng Dân sự, Hình sự 


Luật Sư Nguyễn Văn Diên
Tư vấn pháp luật đất đai

Luật Sư Nguyễn Thị Tình
Luật sư tranh tụng Dân sự, Hình sự

Thạc Sĩ, Luật Sư Nguyễn Thị Hồng Liên
Tư vấn pháp luật doanh nghiệp

Luật sư Phạm Thị Vân

Luật sư đất đai, doanh nghiệp, lao động


Luật Sư. Lê Ngọc Trung
Luật Sư: Tranh Tụng Doanh Nghiệp

Copyright © 2014-2018 All Rights Reserved - luathongthai.com
Design by and support ThanhNam Software