Như chúng ta đã biết, tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn được sử dụng trong tố tụng hình sự. Đây được coi là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc trong số các biện pháp ngăn chặn khác được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Bởi nếu việc áp dụng nghiêm chỉnh, đúng và chính xác những quy định của pháp luật về biện pháp tạm giữ thì sẽ góp phần rất quan trọng cho việc thực hiện được tốt các trình tự tố tụng hình sự. Phát hiện và tìm ra được bằng chứng, chứng cứ phạm pháp để xử lý kịp thời và công minh đối với kẻ có tội, không làm oan người vô tội, đồng thời đây cũng là biện pháp ngăn chặn kịp thời hữu hiệu nhất đối với những người chuẩn bị phạm tội hoặc những người phạm tội thì sẽ không tiếp tục phạm tội hoặc phạm tội mới.
1. Khái niệm chung về
biện pháp ngăn chặn tạm giữ
Tùy thuộc vào mục đích áp dụng,
đối tượng áp dụng hoặc những tiêu chuẩn khác mà các nhà làm luật phân chia các
biện pháp cưỡng chế thành những nhóm khác nhau và trong mỗi nhóm lại có những
biện pháp khác nhau, với những trình tự thủ tục khác nhau, bao gồm 2 nhóm
chính: Nhóm các biện pháp ngăn chặn và nhóm các biện pháp điều tra. Và theo
Điều 79 BLTTHS 2003 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì nhóm các
biện pháp ngăn chặn bao gồm các biện pháp sau: Bắt (bao gồm bắt người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, bắt người bị
truy nã và bắt bị can bị cáo để tạm giam), tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi
cư trú, bảo lĩnh đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Như vậy, tạm giữ là một trong
những biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS hiện hành.
Và theo quy định tại Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì: “ Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự do cơ quan và những người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú
hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã.(3)
2. Mục đích tạm giữ
Mục đích của biện pháp ngăn chặn tạm giữ là nhằm ngăn chặn hành vi phạm
tội hoặc hành vi cản trở việc điều tra khám phá tội phạm của người bị nghi là
thực hiện hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền đủ thời
gian để xác định tính chất, mức độ của hành vi; nhân thân của người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể quyết định khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can hoặc không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc các quyết
định pháp lý cần thiết khác như: tạm giam, áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác
hay trả tự do cho người bị bắt…
Chẳng hạn như, mục đích của tạm giữ đối
với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội
tự thú, đầu thú là để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi chốn tránh pháp luật,
cản trở hoạt động điều tra của người
phạm tội, tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ tài liệu,
bước đầu xác định tính chất hành vi của người bị tạm giữ.
3. Đối tượng tạm giữ
Trước đây, tạm giữ cũng được coi là biện pháp cưỡng chế nhà nước và được
quy định tại Sắc luật số 103 – SL/005 ngày 20-5-1957 về bảo đảm quyền tự do
thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân.
Trong BLTTHS năm 2003, tạm giữ là
biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường
hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với
người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người
bị bắt trốn tránh việc điều tra; xác minh tội phạm và để quyết định việc truy
cứu trách nhiệm hình sự (khởi tố bị can) đối với họ. Do đó, so với quy định tại
Điều 68 BLTTHS năm 1988, thì đối tượng có thể bị tạm giữ được quy định tại Điều
86 BLTTHS năm 2003 rộng hơn và bao gồm: người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp;
người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang; người phạm tội tự thú, đầu thú
hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã.
Nhưng sau khi bị bắt trong các trường hợp nêu
trên, người bị bắt chưa chắc đã bị tạm giữ ví dụ như trong trường hợp người bị
bắt phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng,
người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động, biểu hiện sẽ cản trở
việc điều tra thì không cần phải tạm giữ. Còn đối với bắt người trong trường
hợp khẩn cấp thường phải tạm giữ vì trong hầu hết các trường hợp khi quyết định
bắt khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã xác định cần phải ngăn chặn việc người đó
trốn hoặc cản trở điều tra. Hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã việc
tạm giữ chỉ đặt ra khi xét thấy cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay
để nhận người bị bắt. Bởi theo Khoản 1 Điều 83 BLTTHS năm 2003 thì: “Sau
khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, hoặc phạm tội quả
tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra
quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”. Qua đó ta có thể thấy
rằng, biện pháp tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn độc lập, việc quy áp dụng
biện pháp này phải có những căn cứ nhất định chứ không phụ thuộc vào biện
pháp bắt, hay nói cách khác, biện pháp tạm giữ không phải là biện pháp ngăn
chặn bắt buộc phải áp dụng sau khi bắt người. Vấn đề đặt ra là khi nào cơ quan
có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ? Còn khi nào không cần thiết tạm
giữ? Do đó chúng ta cần quán triệt được mục đích của việc tạm giữ trong TTHS.
Mặc dù trong BLTTHS không quy định rõ mục đích của việc tạm giữ nhưng qua các
điều luật về tạm giữ thì chúng thấy việc tạm giữ người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người tự thú, đầu thú là nhằm có điều kiện để
tiếp tục xác minh thêm về hành vi phạm tội của người bị bắt, người ra tự thú,
đầu thú để làm rõ thêm căn cứ của việc khởi tố vụ án cũng như khởi tố bị can
đối với người họ. Tinh thần này cũng đã được thể hiện qua các quy phạm tại các
Điều như Điều 83 Điều 87 của BLTTHS. Khoản 3 Điều 87 quy định: “ Trong khi
tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm
giữ”. Như vậy sau khi bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả
tang , hoặc khi người phạm tội ra đầu thú, tự thú thì họ có thể không bị tạm
giữ trong các trường hợp sau đây:
- Các cơ quan có thẩm quyền xác đinh
được ngay việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ.
- Ngay sau khi bắt người khẩn cấp
hoặc bắt người phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú các
cơ quan có thẩm quyền đã xác định được đầy đủ căn cứ để có thể khởi tố vụ án hoặc
khởi tố bị can đối với người bị bắt, người tự thú, đầu thú nên đã ra các quyết
định khởi tố cần thiết và cũng đã xác định được ngay căn cứ để có thể tạm giam
đối với họ nên đã gia lệnh tạm giam đối với bị can mà không cần tạm giữ. Hoặc
ngay sau khi bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự
thú, đầu thú đã xác định đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án và khởi tố bị can nên
cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định tạm giữ, rồi sau khi đã ra quyết định
khởi tố cần thiết nhưng xét thấy không cần thiết phải tạm giam bị can nên cơ
quan có thẩm quyền để cho bị can được tại ngoại mà không cần thiết phải tạm
giam bị can.
4. Thẩm quyền tạm giữ
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS quy định “ Những người có quyền ra lệnh bắt
khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh
sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”. Theo khoản 2 Điều 86 quy định về
thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì có bốn nhóm người có
quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm những nhóm người sau đây:
- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan
điều tra các cấp (gồm: cơ quan điều tra trong công an nhân dân, cơ quan điều
tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao)
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc
lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và
biên giới.
- Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu
biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng.
- Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
Theo quy định BLTTHS 2003 thì cơ quan
điều tra cấp huyện trở lên mới có quyền ra lệnh tạm giữ. Chính quyền và công an
cấp xã, phường, thị trấn không có quyền tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự.
Thực hiện quy định này, khi nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả
tang hoặc đang bị truy nã thì UBND xã, phường hoặc thị trấn phải tiến hành lập
biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải ngay người
bị bắt đến cơ quan có thẩm quyền.
Như vậy, những người có quyền ra
quyết định tạm giữ không hoàn toàn là những người đại diện của các cơ quan tiến
hành tố tụng mà bao gồm cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong
lực lượng vũ trang. (7)
5. Thủ tục tạm giữ
Như Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định thì việc tạm giữ phải có lệnh
viết của người có thẩm quyền. Quyết định tạm giữ không đòi hỏi phải có sự phê
chuẩn của Viện Kiểm Sát trước khi thi hành. Nhưng “ Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm
giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không
có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết
định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị
tạm giữ.
Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý
do tạm giữ, thời hạn tạm giữ ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ
một bản.” (Khoản 3
Điều 86 BLTTHS năm 2003)
Căn cứ những quy định tại Điều 86
BLTTHS và xuất phát từ thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, đó là
trên thực tế đã phát sinh thêm một số đối tượng như: những người đang bị truy
nã khi bị bắt, người phạm tội tự thú, đầu thú cũng cần phải tạm giữ để chờ xử
lý, và cũng phát sinh thêm một loại chủ thể cần có thẩm quyền ra quyết định tạm
giữ, đó là chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển, cũng như nghiên cứu về thẩm
quyền, thủ tục, mục đích tạm giữ thì có thể đưa ra khái niệm về biện pháp ngăn
chặn này như sau: “Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, do
cơ quan và người có thẩm quyền theo pháp luật áp dụng đối với những người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc người
đang bị truy nã, người phạm tội tự thú, đầu thú nhằm ngăn chặn tội phạm, tạo
điều kiện cho việc xử lý tội phạm được chính xác và kịp thời”
Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ
lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây:
- Người bị tạm giữ không phải là
người bị bắt quả tang trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú.
- Người bị tạm giữ chỉ có những vi
phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, chưa đến mức phải truy
cứu trách nhỉệm hình sự;
- Người bị tạm giữ trong trường hợp
phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người
bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở
công việc điều tra.(7)
6. Thời hạn tạm giữ
Theo Điều 87 BLTTHS năm 2003 thì:
- Thời
hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị
bắt. Để đạt được mục đích của việc tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ
không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái
pháp luật thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ lúc ra lệnh
tạm giữ mà được tính từ khi Cơ quan điều tra nhận được người bị bắt.
- Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết
định tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ nhưng không được quá ba ngày. Những
trường hợp cần thiết là những trường hợp sự việc xảy ra có nhiều tình tiết phức
tạp, việc xác minh phải thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau hoặc cần phải có
thêm thời gian để làm rõ về hành vi, làm rõ căn cước, lý lịch của người bị tạm
giữ.
- Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết
định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng cũng không được quá ba
ngày. Đây thông thường là trường hợp đối với vụ án xâm phạm an ninh quốc
gia và một số vụ án hình sự khác có nhiều người tham gia, sự việc cần xác minh
rất phức tạp mặc dù đã gia hạn tạm giữ lần thứ nhất vẫn chưa làm rõ được sự
việc.
- Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ phải được
Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Việc gia hạn tạm giữ chỉ có giá trị khi
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì cơ
quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ sau khi hết
hạn tạm giữ trước đó. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn
và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết
định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn.
- Khi hết thời hạn tạm giữ, nếu không đủ căn
cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Đây là
trường hợp không cần gia hạn tạm giữ hoặc đã gia hạn tạm giữ lần thứ nhất hoặc
lần thứ hai nhưng vẫn không đủ căn cứ để xác định người bị tạm giữ đã thực hiện
tội phạm thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
- Thời hạn tạm giữ được được tính trừ vào
thời hạn tạm giam. Thời hạn tạm giữ dù ngắn nhưng lại hạn chế quyền tự do
thân thể, tự do đi lại của công dân nên thời hạn tạm giữ được tính vào thời hạn
tạm giam theo ngưyên tắc một ngày tạm giữ bằng một ngày tạm giam. Trường hợp
người bị tạm giữ sau đó không bị tạm giam thì khi Tòa án quyết định hình phạt
tù đối với bị cáo, thời hạn đã tạm giữ được trừ vào thời hạn phải chấp hành
hình phạt tù theo nguyên tắc một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tù.
Việc tạm giữ đối với người chưa thành
niên phạm tội không có quy định khác về thời hạn tạm giữ.
Theo các quy định nêu trên, cách tính
thời hạn trong TTHS đã quy định khi tính thời hạn theo ngày thì thời hạn sẽ hết
vào lúc 24 giờ, do vậy trong cách tính thời han tạm giữ, thời điểm ra lệnh tạm
giữ chỉ có ý nghĩa để tính ngày bị tạm giữ chứ không có ý nghĩa tính giờ bị tạm
giữ, nói cách khác mặc dù các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ vào
lúc mấy giờ nhưng thời hạn tạm giữ chỉ hết vào lúc 24 giờ của ngày hết hạn.
Việc BLTTHS quy định hai lần có thể gia hạn tạm giữ nhằm bảo đảm tính có căn cứ
và cần thiết của việc tạm giữ, hạn chế hiện tượng tạm giữ tràn làn, góp phần
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, do vậy đòi hỏi người áp
dụng pháp luật phải nhận thức rõ vấn đề này để bảo đảm áp dụng pháp luật được
tốt.