Hotline: 098.203.3335
TRANH TỤNG - TỐ TỤNG HÌNH SỰ - DÂN SỰ - HÀNH CHÍNH - ĐẤT ĐAI - HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
 

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CÔNG TY LUẬT TNHH QUỐC TẾ HỒNG THÁI VÀ ĐỒNG NGHIỆP


Trụ sở chính:
Trụ sở chính: 38LK9, Tổng cục V, Bộ Công an, Tân Triều, Hà Nội

098 203 3335 (24/7)
luathongthai@gmail.com

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm

(Số lần đọc 1352)

1.     Những người có quyền kháng cáo.

Vấn đề này được BLTTHS Việt Nam (Bộ luật tố tụng hình sự 2003) quy định tại Điều 231:

 “ Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.

          Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.

Người bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.

Người được Toà án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội”.

 Như vậy, BLTTHS quy định bị cáo và các đương sự có quyền kháng cáo trong trường hợp họ không nhất trí với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Và phạm vi kháng cáo của những người có quyền kháng cáo với bản án  hoặc quyết định sơ thẩm phụ thuộc vào tư cách tố tụng của họ trong bản án. Về phạm vi kháng cáo như sau:

Bị cáo: có quyền kháng cáo đối với toàn bộ bản án sơ thẩm như: tội danh điều khoản BLHS, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự, hình phạt, biện pháp tư pháp, hình phạt bổ sung và án phí… Nếu bị cáo có thể tự mình thực hiện quyền kháng cáo hoặc do người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo. Theo BLTTHS quy định thì người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp có quyền  kháng cáo khi bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần.

 Người bị hại: họ có quyền kháng cáo cả theo hướng tăng nặng và giảm nhẹ đối với bản án sơ thẩm: tội danh, điều khoản BLHS, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt chính và hình phạt bổ sung, về bồi thường thiệt hại về việc tuyên bị cáo vô tội, về quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Nếu người bị hại là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần  thì người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo  đối với bản án như người bị hại, còn nếu không  thì họ phải tự mình thực hiện quyền kháng cáo. Nếu người bị hại chết, thì người thân của họ có quyền kháng cáo với bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Họ có thể cử người đại diện thực hiện quyền kháng cáo hoặc không.

Nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự: Họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm liên quan đến bồi thường thiệt hại, quyền này có thể do họ, hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền lợi của họ thực hiện cũng có thể do người đại diện hợp pháp của họ nếu họ là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.

Người được Tòa án tuyên là vô tội: Nếu thấy lí do Tòa án nêu là không đúng với thực tế khách quan, xâm hại danh dự uy tín, và nhân phẩm của họ, họ có quyền kháng cáo phần bản án sơ thẩm về lí do đã tuyên họ vô tội.

2.     Kháng nghị của Viện kiểm sát.

          Quyền kháng nghị của Viện kiểm sát được quy định tại điều 232 BLTTHS:

“Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm”

VKS ngoài chức năng thực hiện quyền công tố, VKS còn thực hiện việc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với các vụ án hình sự và việc kháng nghị vụ án phúc thẩm là một trong những điều đó. VKS cùng cấp và VKS cấp trên đều có thể kháng nghị  để khắc phục sai sót của tóa án cấp sơ thẩm. Trong trường hợp vừa có kháng cáo vừa có kháng nghị hoặc vừa có kháng nghị VKS cùng cấp, vừa có kháng nghị của VKS cấp trên mà nội dung khác nhau thì việc xem xét kháng cáo kháng nghị được xem xét theo quy định chung. Tuy nhiên nếu kháng nghị VKS cấp trên và VKS cùng cấp trái ngược nhau thì tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung  mâu thuẫn theo kháng nghị của VKS cấp trên. Đây là quyền song đây cũng là nghĩa vụ của VKS khi phát hiện ra sai phạm, chính vì vậy VKS phải xem xét kĩ trước khi tiến hành kháng nghị.

 Viện trưởng VKS có thể kháng nghị một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm; có thể kháng nghị theo hướng có lợi hoặc theo hướng không có lợi cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Nhưng việc kháng nghị thủ tục phúc thẩm của viện trưởng VKS nhân dân lại bị ràng buộc bởi các quy định của BLTTHS về thẩm quyền truy tố, thẩm quyền xét xử của tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm.

Trường hợp cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội nhưng không thuộc phạm vi kháng nghị phúc thẩm, vì tội phạm hoặc người phạm tội chưa bị khởi tố, truy tố.

Trường hợp VKS chỉ truy tố một tội, tòa án cũng xử như cáo trạng nhưng sau khi xét xử sơ thẩm, VKS cấp trên trực tiếp cho rằng bị cáo phạm hai tội chứ không phải một tội thì cũng không thuộc phạm vi kháng nghị theo trình tự phúc thẩm để tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để giao cho cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại.

Trường hợp cấp sơ thẩm khởi tố, truy tố và xét xử về tội phạm nhẹ nhưng VKS cho rằng lẽ ra phải xét xử bị cáo về tội phạm năng hơn nên đã kháng nghị phúc thẩm đề nghị tòa án cấp phúc thẩm sửa hoặc hủy bản án sơ thẩm.

3.     Thủ tục kháng cáo và kháng nghị.

            Vấn đề này được BLTTHS quy định tại Điều 233:

“1. Người kháng cáo phải gửi đơn đến Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam, Ban giám thị trại tạm giam phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo. Người kháng cáo cũng có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xử sơ thẩm về việc kháng cáo. Tòa án phải lập biên bản về việc kháng cáo đó theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.

2. Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị bằng văn bản, có nêu rõ lý do. Kháng nghị được gửi đến Tòa án đã xử sơ thẩm.”

 Người kháng cáo phải viết đơn kháng cáo gửi đến tòa án đã  xét xử sơ thẩm  hoặc Tòa án có quyền xét xử phúc thẩm vụ án, đơn ghi rõ những thông tin chính sau: ngày làm đơn, họ tên và tư cách tố tụng trong vụ án người kháng cáo, kháng cáo vấn đề gì trong bản án và quyết định sơ thẩm, lí do kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo.

Trong trường hợp bị tạm giam, người kháng cáo không bị bất cứ sự ràng buộc nào  từ ban giám thị trại giam về việc thực hiện quyền kháng cáo. Ban giám thị trại giam có trách nhiệm tiếp nhận ngay đơn kháng cáo, xác nhận ngày kháng cáo và gửi cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án.

 Không bắt buộc tất cả mọi trường hợp phải viết đơn kháng cáo. Người kháng cáo có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án ,trong trường hợp này  Tòa án sẽ phải lập biên bản về người kháng cáo và cũng phải viết rõ những nội dung chính như trên.

Việc kháng nghị phải bằng văn bản, kháng nghị được gửi tới tòa án đã xét xử sơ thẩm để làm thủ tục thông báo kháng nghị.

4.     Thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

          Vấn đề này quy định tại Điều 234 BLTTHS :

“1. Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án.

2. Nếu đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại tạm giam, thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị trại tạm giam nhận được đơn.”

Thời hạn kháng cáo kháng nghị được quy định rất rõ: Đối với VKS cùng cấp, bị cáo, và đương sự có mặt tại tòa thì thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án và đối với VKS cấp trên trực tiếp thì thời hạn kháng nghị là ba mươi ngày kể từ ngày tuyên án. Đây là những thời hạn phù hợp chiếu theo tính chất của từng đối tượng.

Trong trường hợp bị cáo hoặc đương sự vắng mặt khi tuyên án thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho người đó, và nếu vẫn không thể đưa cho họ được thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được niêm yết tại trụ sở UBND phường, xã thị trấn hoặc nơi cư trú và làm việc cuối cùng của người đó. Quy định như trên nhằm bảo vệ quyền lợi của bị cáo hoặc đương sự, đồng thời đảm bảo nguyên tắc công bằng. Trong trường hợp gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính từ  ngày bưu điện nơi gửi  đóng dấu ở phong bì. Còn trong trường hợp tạm giam thì là ngày Ban giám thị trại giam nhận được đơn. Việc xác định thời hạn kháng cáo cũng là nhằm xác định việc kháng cáo có quá hạn hay không?

Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo là ngày tiếp theo của ngày tuyên án, nếu ngày cuối cùng của thời hạn vào thứ bảy, chủ nhật hoặc ngày lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó và lúc 24h.

5.     Kháng cáo quá hạn.                                                       

Việc kháng cáo quá hạn được quy định tại Điều 235 BLTTHS:

“1. Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng.

2. Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán để xét lý do kháng cáo quá hạn. Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn.”

Kháng cáo kháng nghị chỉ được chấp nhận nếu trong thời hạn luật định, qua thời hạn đó thì bị coi là kháng cáo quá hạn. Tuy nhiên việc kháng cáo qua hạn có thể được chấp nhận trong trường hợp có lí do chính đáng. “Lý do chính đáng” là những trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định, ví dụ: do thiên tai, lũ lụt, do ốm đau, tai nạn phải nằm viện điều trị…ngay sau khi đã khắc phục được người có quyền kháng cáo phải làm đơn kháng cáo ngay trong đơn ghi rõ lí do kháng cáo và gửi cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm và Tòa án cấp sơ thẩm phải có trách nhiệm xác minh và gửi đơn kháng cáo quá hạn, biên bản và tài liệu xác minh lí do kháng cáo cho Tòa án cấp phúc thẩm xem xét. Trong trường hợp  người bị xử phạt tử hình mà đơn kháng cáo bị thất lạc thì Tòa án cấp sơ thẩm phải xác minh và có chữ kí của cán bộ tòa án, trong biên bản ghi rõ nội dung kháng cáo, và phải gửi ngay cùng hồ sơ vụ án cho tòa án cấp phúc thẩm.

Việc xét kháng cáo quá hạn không được mở phiên tòa. Việc xét lý do kháng cáo quá hạn phải được thực hiện trước khi mở phiên toà phúc thẩm không phụ thuộc vào việc ngoài bị cáo, đương sự kháng cáo quá hạn, trong vụ án còn có kháng cáo của các bị cáo hoặc khác trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 234 của BLTTHS. Toà án cấp phúc thẩm phải thành lập Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán để xét lý do kháng cáo quá hạn trên cơ sở giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn kháng cáo. Trong trường hợp cần thiết Hội đồng xét xử có quyền triệu tập người kháng cáo quá hạn đến phiên họp trình bày bổ sung về lý do kháng cáo quá hạn hoặc yêu cầu họ cung cấp giấy tờ, tài liệu bổ sung chứng minh cho việc kháng cáo quá hạn của mình là có lý do chính đáng. Nếu kháng cáo quá hạn được chấp nhận thì Tòa án cấp phúc thẩm  mở phiên tòa gửi quyết nội dung kháng cáo. Ngược lại thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định không chấp nhận kháng cáo quá hạn.

6.     Thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị.

          Thông báo về việc kháng cáo kháng nghị được quy định tại Điều 236 BLTTHS:

          “1. Việc kháng cáo, kháng nghị phải được Toà án cấp sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị.

2. Người được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo, kháng nghị cho Toà án cấp phúc thẩm. ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.

          Việc thông báo về kháng cáo do Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện bằng văn bản cho  viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng liên quan đến kháng cáo kháng nghị, biết nội dung kháng cáo kháng nghị, để họ chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa phúc thẩm. Sau khi nhận được thông báo về việc kháng cáo kháng nghị Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng có quyền gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm ý kiến của mình bằng văn bản, cung cấp thêm chứng cứ liên quan tới vụ án. Những điều trên sẽ được xem xét và quyết định trong phiên tòa phúc thẩm. Nếu người kháng cáo kháng nghị gửi thẳng lên cho tòa án cấp phúc thẩm thì  Tòa án cấp phúc thẩm có trách nhiệm thông báo cho Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án sơ thẩm có trách nhiệm thông báo cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng về việc kháng cáo kháng nghị.

Việc thông báo này diễn ra trong bảy ngày, Tòa án cấp phúc thẩm hoặc Tòa án sơ thẩm phải thực hiện đúng, để tránh gây ra sai sót trong tiến hành tố tụng.

7.     Hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị.

          Điều 237 BLTTHS quy định:

“1. Những phần của bản án bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 255 của Bộ luật này. Khi có kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi hành.

2. Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị cho Tòa áp cấp phúc thẩm trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

          Do các phần bị kháng cáo, kháng nghị là những phần cần được xem xét lại tính đúng đắn của nó, vì nếu sai sót thì sẽ gây hậu quả lớn, làm mất quyền lợi của công dân nên một phần hoặc toàn bộ bản án đó sẽ chưa có hiệu lực pháp luật và chưa được đưa ra thi hành mà phải chờ  xem xét của Tòa phúc thẩm. Tuy nhiên cũng  có trường hợp ngoại lệ để bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân : “Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị, kháng cáo”.

Sau khi nhận được kháng cáo kháng nghị với bản án sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi toàn bộ hồ sơ vụ án và kháng cáo kháng nghị cho Tòa án cấp phúc thâm trong thời hạn bảy  ngày  kể từ khi hết hạn kháng cáo kháng nghị, nếu kháng cáo quá hạn thì phải cho biết lí do và Tòa án sơ thẩm phải xác minh.

8.     Bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị.

          Luật tố tụng hình sự quy định điều này tại  điều 238:

“1. Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị.

2. Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.”

 Không phải khi đã nộp đơn kháng cáo, kháng nghị là người kháng cáo kháng nghị sẽ hoàn tất việc kháng cáo kháng nghị, mà pháp luật nước ta đã tạo điều kiện trước khi bắt đầu phiên tòa phúc thẩm  người đã kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã kháng nghị nếu thấy cần thiết có quyền bổ sung thay đổi kháng cáo kháng nghị, nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Việc bổ sung thay đổi nội dung kháng cáo, kháng nghị theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo chỉ trong trường hợp nếu chưa hết thời hạn kháng cáo kháng nghị theo quy định của pháp luật. Có thể rút một phần, hoặc toàn bộ kháng nghị, kháng cáo. Nếu bổ sung thay đổi kháng cáo kháng nghị trước phiên tòa và xét thấy có căn cứ để giải quyết thì phải triệu tập thêm người làm chứng và những người có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị.

Nếu rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị trước khi bắt đầu phiên tòa phúc thẩm thì  thẩm phán Tòa án cấp phúc thẩm được giao giải quyết vụ án ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm vụ án. Còn nếu kháng cáo, kháng nghị được rút tại phiên tòa, mà không còn kháng cáo kháng nghị khác thì hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm vụ án. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử vụ án. Nếu rút một phần kháng cáo, kháng nghị thì tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét phần bản án sơ thẩm bị kháng cáo kháng nghị. Trừ trường hợp tại điều 241 BLTTHS.

9.     Kháng cáo, kháng nghị những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.

          Vấn  đề này được quy định tại điều 239 BLTTHS :

“1. Thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười lăm ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định.

2. Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.”

          Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị đối với tất cả các quyết định của tòa án cấp sơ thẩm. Kể từ ngày tòa án ra quyết định thời hạn kháng nghị đối với Viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày, đối với viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười lăm ngày. Những người kháng cáo quy định tại Điều 231 chỉ có quyền kháng cáo với  quyết định tạm đình chỉ hoặc quyết định đình chỉ vụ án  của Tòa án cấp sơ thẩm. Thời hạn kháng cáo là bảy ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. Thời điểm bắt đầu tính  thời hạn kháng cáo là ngày tiếp theo của ngày quyết định được giao cho họ hoặc niêm yết tại trụ sở UBND xã, phường họ cư trú. Nếu ngày cuối cùng là ngày Tòa án không làm việc thì thời điểm kết thúc là 12h đêm ngày làm việc tiếp theo.

10.             Hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không có kháng cáo kháng nghị.

          Quy định tại điều 240 BLTTHS:

Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.”

Đây là quy định về thời điểm có hiệu lực pháp luật của  bản án, quyết định, và những phần của bản án quyết định sơ thẩm của tòa án không bị kháng cáo, đây cũng là điểm mới so với các bộ luật trước. Từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị  thì những bản án, quyết định, và những phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị sẽ có hiệu lực tức là được đưa ra thi hành, trừ trường hợp kháng cáo quá hạn có lí do chính đáng và được tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận thì trong trường hợp đó nó vẫn được đưa ra áp dụng thi hành.

Công ty Luật TNHH Hồng Thái và đồng nghiệp xin hân hạnh được mang đến cho quý khách hàng những dịch vụ tư vấn tốt nhất về các lĩnh vực như:
     + Tư vấn pháp luật dân sự, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến các giao dịch dân sự;
     +Tư vấn đầu tư, khắc dấu, cấp giấy phép kinh doanh, tư vấn sở hữu trí tuệ, in hóa đơn;
    +   Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến các giao dịch và nghĩa vụ dân sự như: cầm cố, thế chấp, đặt cọc, bảo lãnh…;
     +   Tư vấn pháp luật, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng mua bán, tặng, cho, vay mượn tài sản;
   +   Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng thuê, thuê khoán tài sản và các quy định pháp luật liên quan; 
   +   Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng dịch vụ, hợp đồng vận chuyển hàng hóa, hợp đồng gia công, hợp đồng bảo hiểm và các quy định pháp luật liên quan;
    +   Tư vấn, hỗ trợ pháp lý, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền và các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề ủy quyền.
    +   Tư vấn, soạn thảo và rà soát lại các văn bản liên quan đến thừa kế như: tư vấn, hỗ trợ pháp lý về thừa kế cho người để lại thừa kế, người thừa kế; soạn thảo di chúc và các văn bản khác; tư vấn, hỗ trợ pháp lý các vấn đề thừa kế khác có liên quan;
    +   Tư vấn, hỗ trợ pháp lý liên quan đến các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
    Xin vui lòng liên hệ:  19006248 để công ty chúng tôi có thể tư vấn cho quý khách.

    Trân trọng!.

Mời bạn đánh giá bài viết này!
Đặt câu hỏi
Báo giá vụ việc
Đặt lịch hẹn

Có thể bạn quan tâm?

Cách xác định thời điểm xét nâng bậc lương
Tháng 11/2011, bà Trần Thị Thu Giang (gianghlu89@…) được nhận vào Sở Công Thương làm việc theo chế độ hợp đồng, hưởng 75% lương bậc 1 hệ số 2,34. Tháng 12/2011, bà Giang thi và trúng tuyển công chức, đến tháng 5/2012, có quyết định tuyển dụng và đến tháng 11/2012, hết thời gian tập sự.
Phụ cấp thâm niên chỉ được tính khi có quyết định hết tập sự
Cô giáo Nguyễn Thị Lan Hương (Trường Tiểu học Lộc Thành, Bảo Lâm, Lâm Đồng) hỏi về cách tính hưởng phụ cấp thâm niên. Hỏi: Tháng 9/1995 tôi được Phòng GD&ĐT huyện Bảo Lâm ra quyết định điều động về giảng dạy trực tiếp ở trường tiểu học, hưởng lương 1,57, mã ngạch 15114 có đóng BHXH. Tháng 6/1998...
Hai người từng có mối quan hệ là bố dượng và con riêng của vợ có thể kết hôn với nhau được không?
Theo quy định tại điều 10 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 thì việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau:
Quy định về cầm cố tài sản
Cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 326 Bộ luật dân sự 2005). Cầm cố tài sản được quy định tại Bộ luật dân sự 2005 từ Điều 326 đến Điều 341, bao gồm các nội dung chính sau:
Những hợp đồng nào phải công chứng, chứng thực?
Theo quy định hiện hành của pháp luật, thì những hợp đồng dưới đây bắt buộc phải được cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực:
Án treo và điều kiện hưởng án treo
Án treo là một biện pháp chấp hành hình phạt tù và được quy định cụ thể tại Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao.
Chồng mắng chửi vợ có bị xử lý?
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2 Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 thì "Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm" là một hành vi bạo lực gia đình
Người chưa thành niên phạm tội có bị xử phạt tù chung thân, tử hình?
Theo quy định của Bộ luật hình sự thì "Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội"
Thủ tục thay đổi họ tên
Quy định về thế chấp tài sản
Quy định chung về thế chấp tài sản bao gồm các nội dung cơ bản về thế chấp, hình thức thế chấp, thời hạn thế chấp, quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp và bên nhận thế chấp, hủy bỏ và chấm dứt việc thế chấp tài sản và các nội dung khác liên quan bao gồm:
 
Tin nhiều người quan tâm
Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã được hưởng quyền và nghĩa vụ gì?
Hợp tác xã là gì? Liên hiệp hợp tác xã là gì? Quyền và nghĩa vụ của Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác...
 
Làm thẻ căn cước có phải về quê không ?
Thẻ căn cước công dân là giấy tờ tùy thân của công dân Việt Nam có giá trị chứng minh về căn cước...
 
Tài sản đứng tên một người, có phải là tài sản chung của vợ chồng
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản...
 
Trăn trở của bao cặp vợ chồng: Có nên ly hôn khi không còn tình cảm?
 
Nguyên nhân, thực trạng ly hôn hiện nay và đưa ra giải pháp hạn chế thực trạng này.
Hôn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp hài hòa lợi ích...
 

Thư viện video

Dành cho đối tác

Giới thiệu

Về chúng tôi

Công ty luật Quốc Tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp – Nơi các luật sư, chuyên gia tư vấn có trình độ cao, có kinh nghiệm nhiều năm trong các lĩnh vực tư vấn đầu tư, thuế – kế toán, sở hữu trí tuệ, tố tụng, lao động, đất đai…đảm nhiệm.

Kinh tế đang phát triển, xã hội có sự phân công lao động rõ ràng. Và chúng tôi hiện diện trong cộng đồng doanh nghiệp để đồng hành, chia sẻ, gánh vác và hỗ trợ các doanh nghiệp.

Chi tiết→

CÁC CHUYÊN VIÊN TƯ VẤN CỦA CHÚNG TÔI

luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn

Tiến Sĩ, Luật Sư Nguyễn Hồng Thái
Tiến sĩ - Luật sư tranh tụng hình sự, dân sự

Luật Sư Trần Anh Minh
Luật sư tranh tụng Dân sự, Hình sự 


Luật Sư Nguyễn Văn Diên
Tư vấn pháp luật đất đai

Luật Sư Nguyễn Thị Tình
Luật sư tranh tụng Dân sự, Hình sự

Thạc Sĩ, Luật Sư Nguyễn Thị Hồng Liên
Tư vấn pháp luật doanh nghiệp

Luật sư Phạm Thị Vân

Luật sư đất đai, doanh nghiệp, lao động


Luật Sư. Lê Ngọc Trung
Luật Sư: Tranh Tụng Doanh Nghiệp

Copyright © 2014-2018 All Rights Reserved - luathongthai.com
Design by and support ThanhNam Software