Các trường hợp miễn trách nhiệm
đối với hành vi vi phạm trong hợp đồng.
Miễn trách nhiệm theo thỏa thuận
Pháp luật
thương mại đề cao tính tự do trong hợp đồng. Do vậy, các bên được quyền tự
thỏa thuận các trường hợp miễn trách nhiệm khi giao kết hợp đồng thương mại.
Thỏa thuận giữa các bên về trường hợp miễn trách nhiệm phải tồn tại trước
khi xảy ra vi phạm và có hiệu lực đến thời điểm bên bị vi phạm áp dụng chế
tài. Khi hợp đồng được giao kết bằng văn bản, thì thỏa thuận miễn trách
nhiệm được ghi nhận trong nội dung hợp đồng hoặc trong phụ lục hợp đồng.
Nhưng kể cả khi hợp đồng đã ký kết các bên vẫn có thể thỏa thuận bằng lời
nói hoặc hành vi cụ thể hoặc sửa đổi, bổ sung vào hợp đồng các trường hợp
miễn trách nhiệm. Khi hợp đồng được giao kết bằng lời nói hoặc hành vi cụ
thể thì thỏa thuận miễn trách nhiệm cũng có thể được thể hiện bằng lời
nói hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên, việc chứng minh sự tồn tại một thỏa
thuận không bằng văn bản sẽ gặp những khó khăn nhất định.
Thực tiễn
trong giao kết hợp đồng thương mại cho thấy ít khi các bên chấp nhận việc
thỏa thuận trực tiếp và rõ ràng về các trường hợp miễn trách nhiệm, vì có
thể bên vi phạm sẽ vin vào điều này để không tuân thủ hợp đồng. Do đó, các
bên có thể thỏa thuận gián tiếp miễn trách nhiệm ở một chừng mực nhất định.
Miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả
kháng
Theo quy định
của pháp luật thương mại, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong
trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng. Điều này có nghĩa là dù hợp đồng
có quy định hay không thì khi xảy ra sự kiện bất khả kháng dẫn đến việc vi
phạm hợp đồng, bên vi phạm vẫn được miễn trách nhiệm. Tuy nhiên, trong Luật
thương mại 2005 lại khong quy định thế nào là trường hợp bất khả kháng và theo
qiu định của BLDS 2005: “Sự kiện bất khả
kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không
thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho
phép”. Theo đó, để được xem là bất khả kháng thì một sự kiện cần thỏa mãn 3
nội dung sau:
+Thứ nhất, là sự kiện khách quan xảy ra sau khi ký hợp đồng. Tức là sự
kiện nằm ngoài phạm vi kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các
hiện tượng tự nhiên: bão, lụt, sóng thần… các sự kiện chính trị, xã hội:
đình công, bạo loạn, chiến tranh…, ngoài ra còn có các trường hợp như hỏa hoạn
phát sinh từ khu vực bên ngoài lan sang và thiêu rụi nhà máy…
+Thứ hai, là sự kiện xảy ra không thể dự đoán trước được. Năng lực
đánh giá xem xét một sự kiện có xảy ra hay không được xét từ vị trí của một
thương nhân bình thường chứ không phải một chuyên gia chuyên sâu. Ví dụ khu vực
nhà máy của bên vi phạm thường xuyên có bão vào mùa mưa nhưng do tính bất ngờ
và khó kiểm soát của bão nên việc dự đoán bão có xảy ra hay không đối với
một thương nhân là không thể lường trước được. (chiến tranh, bạo loạn, đình
công… hay các thảm họa thiên nhiên khác).
+Thứ ba, là sự kiện xảy ra mà hậu quả để lại không thể khắc phục
được dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép, là sự kiện
xảy ra mà chúng ta không thể tránh được về mặt hậu quả. Tức là sau khi bên vi
phạm đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết những vẫn không khắc phục được hậu
quả thì mới đáp ứng điều kiện này. Tuy nhiên, nếu như bên vi phạm không thực
hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục hậu quả nhưng chứng minh được rằng
dù có hành động vẫn không thể khắc phục được hậu quả thì xem như đã thỏa
mãn điều kiện này.
Để được áp dụng
miễn trừ do sự kiện bất khả kháng thì bên có hành vi vi phạm phải chứng minh được
sự cố dẫn đến vi phạm hợp đồng thõa mãn 3 điều kiện vừa nêu.
Khi xảy ra trường
hợp bất khả kháng, các bên có thể thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng; trừ các hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định
về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ. Nếu các bên không có thoả thuận hoặc
không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một
thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp
lý để khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây:
+ 05 tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng,
cung ứng dịch vụ được thoả thuận không quá 12 tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;
+ 08 tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng,
cung ứng dịch vụ được thoả thuận trên 12 tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên,
nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài quá thời hạn nêu trên thì các bên có quyền
từ chối thực hiện hợp đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi thường
thiệt hại. Bên từ chối thực hiện hợp đồng phải thông báo cho bên kia biết trước
khi bên kia bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng trong thời hạn 10 ngày.
Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên bị vi
phạm
Căn cứ miễn
trách nhiệm trong trường hợp này phải do lỗi của bên bị vi phạm. Lỗi này có
thể là hành động hoặc không hành động của bên bị vi phạm. Ngoài
ra, cũng có thể là một hành vi vi phạm hợp đồng của bên bị vi phạm, tức là cả
hai bên đều có hành vi vi phạm hợp đồng.
Tuy nhiên, Điều 294 mới dự liệu miễn trách nhiệm đối với
bên vi phạm hợp đồng khi “Hành vi vi phạm
của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia” mà chưa tính đến khả năng hành vi
vi phạm của một bên có nguyên nhân xuất phát từ bên thứ ba, mà bên này rơi vào
các trường hợp mà pháp luật quy định được miễn trách nhiệm. Dù các bên có thể
thoả thuận về các trường hợp miễn trách nhiệm trong hợp đồng của họ. Nhưng
trong trường hợp không được thoả thuận, đương nhiên bên vi phạm sẽ không được
miễn trách nhiệm nếu do lỗi của bên thứ ba, mặc dù bên này rơi vào các trường hợp
miễn trách nhiệm. Về vấn đề này, Luật thương mại 2005 cứng nhắc hơn so với Pháp
lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, một văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng kinh
tế trong không gian và thời gian của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tại
Điều 40 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: “Bên vi phạm hợp đồng kinh tế được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách
nhiệm tài sản trong các trường hợp sau đây: 1) Gặp thiên tai, địch hoạ và các
trở lực khách quan khác không thể lường trước được và đã thi hành mọi biện pháp
cần thiết để khắc phục ; 2) Phải thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật; 3) Do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh
tế với bên vi phạm nhưng bên thứ ba không phải chịu trách nhiệm tài sản trong
các trường hợp quy định tại điểm 1 và điểm 2 của điều này...” Tất cả các luật
quy định về hợp đồng sau này như Bộ luật dân sự 1995, Luật thương mại 1997, Bộ
luật dân sự 2005, Luật thương mại 2005 đã không kế thừa sự tiến bộ này mà lại
loại bỏ nó ra khỏi các trường hợp miễn trách nhiệm được quy định trong luật.
Thêm vào đó, pháp
luật thương mại hiện hành nói chung và Điều 294 Luật thương mại nói riêng cũng
chưa dự liệu trường hợp miễn trách nhiệm do một bên uỷ quyền cho bên thứ ba thực
hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng mà bên thứ ba này vi phạm nghĩa vụ trong một
số trường hợp cụ thể.
Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ
quan quản lý nhà nước
Miễn trách nhiệm chỉ
được áp dụng khi hành vi vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng. Nếu như các bên đã biết về việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng mà vẫn đồng ý giao kết hợp
đồng thì không được áp dụng miễn trách nhiệm.
Quyết định của
cơ quan nhà nước phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm, tức là phải thực
hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới hành vi vi
phạm hợp đồng.
Tuy nhiên, Luật
thương mại cùng các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn chưa quy định rõ ràng một
số vấn đề sau: “Các bên” ở trong trường hợp này có nghĩa là cả bên vi phạm
và bên bị vi phạm, thế nhưng việc không thể biết quyết định cơ quan nhà nước có
thẩm quyền dẫn đến vi phạm hợp đồng chỉ có ý nghĩa đối với bên vi phạm hợp đồng,
từ đó khẳng định bên vi phạm hợp đồng không có “lỗi”. Việc bên bị vi phạm có biết
hay không thì về bản chất không ảnh hưởng gì đến thái độ của bên vi phạm hợp đồng.
Và, hiểu thế
nào là “không thể biết” để từ đó được miễn trách nhiệm đối với trường hợp này
cũng còn quá chung chung. Việc biết sự tồn tại của quyết định của cơ quan nhà
nước có buộc phải theo một “kênh chính thống” hay có thể biết bằng nhiều cách
khác nhau? Cơ quan quản lý nhà nước có phải thông báo bằng văn bản hay chỉ cần
thông báo bằng miệng về quyết định đó thì thương nhân mới “biết”, hay nếu bên bị
vi phạm chỉ cần chứng minh các bên biết sự tồn tại của quyết định đó, bất kể
“biết” theo kiểu gì, “biết” bằng cách nào cũng đều là chứng cứ để bên vi phạm
phải gánh chịu trách nhiệm? Cho đến hiện nay, vẫn chưa có một văn bản
pháp luật nào được ban hành để hướng dẫn thi hành quy định này.
Cách xác định thời điểm xét nâng bậc lương
Tháng 11/2011, bà Trần Thị Thu Giang (gianghlu89@…) được nhận vào Sở Công Thương làm việc theo chế độ hợp đồng, hưởng 75% lương bậc 1 hệ số 2,34. Tháng 12/2011, bà Giang thi và trúng tuyển công chức, đến tháng 5/2012, có quyết định tuyển dụng và đến tháng 11/2012, hết thời gian tập sự.
|
Phụ cấp thâm niên chỉ được tính khi có quyết định hết tập sự
Cô giáo Nguyễn Thị Lan Hương (Trường Tiểu học Lộc Thành, Bảo Lâm, Lâm Đồng) hỏi về cách tính hưởng phụ cấp thâm niên.
Hỏi: Tháng 9/1995 tôi được Phòng GD&ĐT huyện Bảo Lâm ra quyết định điều động về giảng dạy trực tiếp ở trường tiểu học, hưởng lương 1,57, mã ngạch 15114 có đóng BHXH.
Tháng 6/1998...
|
Hai người từng có mối quan hệ là bố dượng và con riêng của vợ có thể kết hôn với nhau được không?
Theo quy định tại điều 10 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 thì việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau:
|
Quy định về cầm cố tài sản
Cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 326 Bộ luật dân sự 2005). Cầm cố tài sản được quy định tại Bộ luật dân sự 2005 từ Điều 326 đến Điều 341, bao gồm các nội dung chính sau:
|
Những hợp đồng nào phải công chứng, chứng thực?
Theo quy định hiện hành của pháp luật, thì những hợp đồng dưới đây bắt buộc phải được cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực:
|
Án treo và điều kiện hưởng án treo
Án treo là một biện pháp chấp hành hình phạt tù và được quy định cụ thể tại Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao.
|
Chồng mắng chửi vợ có bị xử lý?
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2 Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 thì "Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm" là một hành vi bạo lực gia đình
|
Người chưa thành niên phạm tội có bị xử phạt tù chung thân, tử hình?
Theo quy định của Bộ luật hình sự thì "Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội"
|
Thủ tục thay đổi họ tên
|
Quy định về thế chấp tài sản
Quy định chung về thế chấp tài sản bao gồm các nội dung cơ bản về thế chấp, hình thức thế chấp, thời hạn thế chấp, quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp và bên nhận thế chấp, hủy bỏ và chấm dứt việc thế chấp tài sản và các nội dung khác liên quan bao gồm:
|