Trên thực tế sổ đỏ, sổ hồng không phải là loại giấy tờ được pháp
luật quy định mà đây chỉ là tên gọi do người dân dựa trên màu sắc của mỗi loại
giấy để tự đặt ra để nói cho ngắn gọn cũng như để phân biệt giữa các loại giấy
chứng nhận. Hiểu cách khác đó là cách gọi dân dã dựa trên màu sắc của sổ.
2.1.
Khái niệm sổ đỏ và sổ hồng:
–
Sổ đỏ là mẫu do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành, bìa có màu đỏ, với nội
dung ghi nhận quyền sử dụng đất (có thể là đất ở, đất sản xuất nông nghiệp,
vườn, ao, đất rừng…) nên mẫu này có tên gọi là “Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất”.
–
Sổ hồng là mẫu do Bộ Xây dựng ban hành, bìa có màu hồng với nội dung là ghi
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở nên mẫu có tên gọi là “Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở”. Mẫu này cấp cho các
trường hợp sau:
+)
Trường hợp chủ sở hữu nhà ở đồng thời là chủ sử dụng đất ở, chủ sở hữu căn hộ
trong nhà chung cư thì cấp một giấy chứng nhận là Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở và quyền sử dụng đất ở.
+)
Trường hợp chủ sở hữu nhà ở không đồng thời là chủ sử dụng đất ở thì cấp Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở quy định tại khoản này được gọi
chung là Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.
Tư vấn pháp luật miễn phí 19006248
2.2.
Hợp nhất sổ đỏ và sổ hồng:
Năm
2009, để thống nhất thành một loại Giấy chứng nhận, ngày 19/10/2009 Chính phủ
ban hành Nghị định số 88/2009/NĐ-CP (đã hết hiệu lực) và ngày 21/10/2009 Bộ Tài
nguyên và Môi trường ban hành Thông tư số 17/2009/TT-BTNMT (đã được thay thế
bằng thông tư khác) về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất. Theo đó, hai loại Giấy chứng nhận nói trên
sẽ do Bộ Tài nguyên và Môi trường phát hành theo một mẫu thống nhất và được áp
dụng trong phạm vi cả nước đối với mọi loại đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất…
Kế
thừa quy định nói trên, Điều 97 Luật Đất đai 2013
cũng quy định:
Điều
97. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất
1. Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất được cấp cho người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu
tài sản khác gắn liền với đất theo một loại mẫu thống nhất trong cả nước.
Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định cụ thể về Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
2. Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu
công trình xây dựng đã được cấp theo quy định của pháp luật về đất đai, pháp
luật về nhà ở, pháp luật về xây dựng trước ngày 10 tháng 12 năm 2009 vẫn có giá
trị pháp lý và không phải đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp người đã được cấp Giấy
chứng nhận trước ngày 10 tháng 12 năm 2009 có nhu cầu cấp đổi thì được đổi sang
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất theo quy định của Luật này.
Như
vậy, theo như các quy định vừa trích dẫn ở trên, sổ đỏ hay sổ hồng đều là giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, hoặc quyền sở hữu nhà ở do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp.
Từ
năm 2009, thống nhất cấp “Giấy chứng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất” có bìa màu hồng.
Nhưng
thực tế hiện nay vẫn đang lưu hành cả 3 loại giấy tờ là “Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất” (có bìa màu đỏ), “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở” (có bìa màu hồng) và “Giấy chứng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” (có bìa màu hồng). Cả 3 giấy tờ đó đều
có giá trị pháp lý như nhau.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Hồng Thái và Đồng Nghiệp về vấn đề của bạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tổng đài 1900.6248 để được giải đáp và hỗ trợ kịp thời.