I, Lí
luận chung về xuất xứ hàng hóa.
1, Khái
niệm.
Trong thương mại quốc tế, quy tắc xuất xứ
hàng hóa là tập hợp các quy định nhằm xác định quốc gia nào được coi là đã sản
xuất ra hàng hóa (nước xuất xứ của hàng hóa )
Trong nhiều
trường hợp, các nước nhập khẩu cần biết xuất xứ hàng hóa nhập khẩu để xác định
quy chế đặc biệt áp dụng cho hàng hóa đó (ví dụ ưu đãi thuế quan, thuế chống
bán phá giá hạn ngạch…)
Ngày nay, rất
nhiều các sản phẩm được sản xuất theo các công đoạn khác nhau, mỗi công đoạn
thực hiện ở một nước nhằm tận dụng những lợi thế liên quan của nước đó (ví dụ
nhân công, nguồn nguyên liệu, kỹ thuật…). Vì vậy nếu không có các quy tắc xuất
xứ thì không thể xác định được xuất xứ chính thức của các hàng hóa này để từ đó
áp dụng quy chế đặc biệt liên quan, nếu có.
Đối với doanh nghiệp, quy tắc xuất xứ hàng hóa của từng nước có thể ảnh hưởng
đến lợi ích của doanh nghiệp (ví dụ khi quy tắc này được sử dụng để cơ quan có
thẩm quyền nước nhập khẩu quyết định hàng hóa của doanh nghiệp có được hưởng
thuế ưu đãi theo GSP không hoặc có bị áp thuế chống bán phá giá không).
2, Mục
đích của việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hóa.
Với việc áp dụng tương đối rộng rãi
nguyên tắc ưu đãi thuế quan phổ cập, hàng hóa nhập khẩu vào các nước hiện nay
được áp dụng các mức thuế quan và các quy chế nhập khẩu tương tự nhau, không
phân biệt hàng hóa đó có xuất xứ từ nước nào. Vì vậy trong nhiều trường hợp
việc xác định xuất xứ hàng hóa là không cần thiết.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại những trường hợp
phải xác định xuất xứ hàng hóa. Trên thực tế, mỗi nước đều có quy tắc xuất xứ
hàng hóa áp dụng cho hàng nhập khẩu vào nước mình nhằm phục vụ các mục đích
sau:
- Để thực thi các biện pháp/công cụ thương mại như
thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, biện pháp tự vệ (vốn chỉ áp dụng
với hàng hóa xuất xứ từ một số nước nhất định là đối tượng của các biện
pháp, công cụ thương mại này);
- Xác định xem hàng hóa nhập khẩu thuộc diện áp
dụng thuế tối huệ quốc (MFN) hay diện ưu đãi thuế quan (ví dụ GSP);
- Để phục vụ công tác thống kê thương mại (ví dụ
xác định lượng nhập khẩu, trị giá nhập khẩu từ từng nguồn);
- Để phục vụ việc thực thi các quy định pháp luật
về nhãn và ghi nhãn hàng hóa;
- Để phục vụ các hoạt động mua sắm của chính phủ
theo quy định.
II, Các quy tắc xuất xứ hàng hóa.
Chương 1, Phụ lục K Công ước Kyoto về
đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan (sửa đổi năm 1999) nêu rõ khái
niệm về quy tắc xuất xứ. Theo đó, “quy tắc xuất xứ là các quy định được
pháp luật quốc gia hoặc các điều ước quốc tế xây dựng, được một quốc gia áp
dụng để xác định xuất xứ của hàng hóa.”
Có thể phân chia quy tắc xuất xứ theo nhiều cách khác nhau. Nếu dựa trên tiêu
chí xuất xứ, quy tắc xuất xứ bao gồm quy tắc về xuất xứ thuần túy và quy
tắc về xuất xứ không thuần túy. Xuất xứ thuần túy là thuật ngữ chỉ
trường hợp thứ nhất trong khái niệm về xuất xứ hàng hóa của WTO - khi hàng hóa
hoàn toàn được sản xuất ra tại một quốc gia. Đa số các quy tắc về xuất xứ thuần
túy trên thế giới đều giống nhau về nội dung, và chủ yếu liên quan tới các mặt
hàng nông lâm thủy hải sản và khoáng sản. Xuất xứ không thuần túy là
xuất xứ hàng hóa có thành phần nhập khẩu, được đề cập tới ở trường hợp thứ hai
trong khái niệm về xuất xứ hàng hóa của WTO. Trường hợp này xảy ra khi có nhiều
hơn một quốc gia tham gia vào quá trình sản xuất ra hàng hóa.
Nhìn chung, các quy tắc xuất xứ đều yêu cầu để được hưởng ưu đãi, hàng hóa có
xuất xứ không thuần túy phải được gia công chế biến đầy đủ tại nước
thành viên. Để xác định mức độ gia công chế biến, người ta thường căn cứ vào sự
chuyển đổi mã số HS (CTC), hàm lượng giá trị gia tăng hay hàm lượng giá trị khu
vực (RVC) hoặc các tiêu chí cụ thể được quy định riêng với một số sản phẩm
(PSR).[1]
Nếu dựa vào mục đích sử dụng, quy tắc xuất xứ có thể chia thành quy
tắc xuất xứ ưu đãi và không ưu đãi. Theo Khoản 2 và 3, Điều 3, Nghị định
19/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về xuất xứ hàng hóa do Chính
phủ ban hành ngày 20 tháng 2 năm 2006:
“2. Quy tắc xuất xứ ưu đãi là các quy
định về xuất xứ áp dụng cho hàng hóa có thoả thuận ưu đãi về thuế quan và ưu
đãi về phi thuế quan.
3. Quy tắc xuất xứ không ưu đãi là
các quy định về xuất xứ áp dụng cho hàng hóa ngoài quy định tại khoản 2 Điều
này và trong các trường hợp áp dụng các biện pháp thương mại không ưu đãi về
đối xử tối huệ quốc, chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, hạn chế số lượng
hay hạn ngạch thuế quan, mua sắm chính phủ và thống kê thương mại.”
Như vậy, quy tắc xuất xứ ưu đãi được sử dụng để xác định xuất xứ hàng hóa nhằm
các mục đích ưu đãi như cho hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt. Ngược lại, quy tắc
xuất xứ không ưu đãi được sử dụng để xác định xuất xứ hàng hóa nhằm các mục
đích không ưu đãi như trừng phạt thương mại. Do sự gia tăng của các FTA trong
WTO, quy tắc xuất xứ ưu đãi đa dạng hơn hẳn so với quy tắc xuất xứ không ưu đãi.
Bản thân Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO chỉ quy định về quy tắc xuất xứ
không ưu đãi, còn quy tắc xuất xứ ưu đãi sẽ được các thành viên xây dựng khi
đàm phán FTA hoặc cấp ưu đãi GSP. Mỗi thành viên WTO chỉ có một quy tắc xuất xứ
không ưu đãi nhưng có thể có nhiều quy tắc xuất xứ ưu đãi khác nhau. Quy tắc
xuất xứ không ưu đãi phải được áp dụng trên nguyên tắc không phân biệt đối xử,
còn quy tắc xuất xứ ưu đãi không chịu sự ràng buộc này.
Ở Việt Nam, chỉ có Nghị định 19/2006/NĐ-CP quy định về quy tắc xuất xứ không ưu
đãi nhưng có rất nhiều quy tắc xuất xứ ưu đãi trong các hiệp định thương mại
song phương và đa phương mà nước ta là thành viên. Việt Nam hiện nay đã ký kết
rất nhiều hiệp định với tư cách thành viên ASEAN hoặc với tư cách riêng với
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand, Chile. Đặc biệt,
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản hiện nay có thể được
xác định xuất xứ dựa trên ba quy tắc xuất xứ ưu đãi (GSP, AJCEP, VJEPA).[2] Điều đó cho thấy sự
đa dạng, phức tạp của các quy tắc xuất xứ ưu đãi trong thương mại quốc tế.
Đỗ Chinh
Phóng viên không có thẻ nhà báo mất quyền tác nghiệp tại tòa
Đây là quy định tại thông tư số 03/2014 về ban hành nội quy phiên tòa do Chánh án TAND tối cao Trương Hòa Bình vừa ký ban hành, có hiệu lực từ ngày 16.6.2014.
|
Thêm một chủ tàu cá bị trình báo bị Trung Quốc tấn công
Tàu cá mang số hiệu QNg90567 về đến cảng cá trong tình trạng, thân tàu rạn nứt nhiều chỗ.
|
Luật không cấm người có bằng tại chức thi công chức, viên chức
|
Khó bố trí đủ nguồn tiền lương trong 1-2 năm tới
Kinh tế Việt Nam còn nhiều khó khăn, chưa thể tăng trưởng cao trong 1-2 năm tới nên khó bố trí đủ nguồn cho cải cách tiền lương, Chính phủ chưa trình Trung ương xem xét Đề án tiền lương. Tiền lương sẽ được điều chỉnh theo tình hình kinh tế – xã hội…
|
Quốc hội sẽ có Tổng thư ký
Theo Dự thảo luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi), sắp tới, sẽ có chức danh Tổng thư ký Quốc hội. Đây là người đứng đầu Văn phòng Quốc hội, thay thế cho chức danh Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và trưởng đoàn thư ký kỳ họp hiện nay
|
Tẩy chay "hàng Tàu", "hàng Thái" tấn công thị trường Việt
Sau những cảnh báo về nguy cơ tiềm ẩn của hàng Trung Quốc, đặc biệt sau việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép ở Hoàng Sa, những làn sóng "tẩy chay hàng Tàu" đã bắt đầu trỗi dậy. Đây cũng là lúc hàng Thái bắt đầu "tấn công" thị trường Việt.
|
Sữa đồng loạt giảm giá sau khi bị áp giá trần
Trần giá sữa vừa được áp (ngày 1/6), nhiều hãng sữa đồng loạt giảm cả giá bán lẻ (sẽ áp dụng từ 20/6) với mức từ 40.000 đồng - 138.000 đồng/hộp.
|
Vụ kiện quốc tế đầu tiên mà Việt Nam tham gia và giành thắng lợi
Ngày 18/11/2010, ông Michael McKenzie, công dân Hoa Kỳ, khởi kiện Chính phủ Việt Nam ra Trọng tài quốc tế về Dự án xây dựng khu du lịch nghỉ dưỡng South Fork tại tỉnh Bình Thuận với lý do Chính phủ Việt Nam, mà trực tiếp là UBND tỉnh Bình Thuận, đã vi phạm quy định của Hiệp định Thương mại song...
|
Bộ tài chính áp mức trần giá sữa
Để “dẹp loạn” giá sữa dành cho trẻ em, đang gây bức xúc cho người tiêu dùng, ngày 20/5, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Văn Hiếu đã ký ban hành Quyết định 1079/QĐ-BTC về áp dụng biện pháp bình ổn giá đối với sản phẩm sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi.
|
Xe máy điện buộc phải đăng kí từ 1/6/2014
Bộ Công an vừa chính thức ban hành Thông tư số 15/2014/TT-BCA quy định về việc mua bán, trao đổi, tặng các phương tiện giao thông như xe máy, ôtô.
|