Pháp luật quy định như thế nào về việc kết hôn khi có quan hệ họ hàng?
Luật
hôn nhân gia đình 2014 quy định những trường hợp cấm kết hôn như sau:
–
Cấm kết hôn giả tạo, tức là kết hôn không phải vì để xây dựng hạnh phúc gia
đình mà nhắm vào những mục đích khác chẳng hạn như là để xuất nhập cảnh, nhập
quốc tịch…
–
Cấm hành vi cản trở hoặc cưỡng ép, lừa dối người khác thực hiện kết hôn hoặc ly
hôn.
–
Cấm kết hôn khi chưa đủ độ tuổi mà pháp luật quy định (tảo hôn).
–
Cấm chung sống như vợ chồng với người đang có vợ hoặc chồng, hoặc người đang có vợ hoặc chồng mà sống chung như
vợ chồng với người khác.
–
Cấm kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực
hệ; giữa những người có quan hệ họ hàng trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi
với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với
con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng
của chồng.
–
Cấm yêu sách, đòi hỏi về của cải một cách vô lý trong việc kết hôn, chẳng hạn
như thách cưới, hoặc yêu cầu của hồi môn quá cao.
–
Cấm thực hiện việc mang thai hộ, sử dụng kỹ thuật sinh sản vì mục đích thương mại,
cấm lựa chọn giới tính của thai nhi, sinh con bằng hình thức sinh sản vô tính.
–
Cấm mọi hành vi bạo lực gia đình, kể cả bạo lực thể chất hay bạo lực tinh thần.
–
Cấm lợi dụng việc kết hôn để mua bán người, xâm phạm tình dục, bóc lột sức lao
động hoặc vì hành vi trục lợi khác.
Như
vậy việc kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người có cùng dòng máu trực hệ
có quan hệ họ hàng trong phạm vi ba đời là điều mà luật không cho phép. Đặt trường
hợp ngược lại là có quan hệ họ hàng nhưng ở ngoài phạm vi 3 đời này thì vẫn được
phép kết hôn.

Luật sư tư vấn, đại diện ngoài tố tụng - 0982033335
Việc
luật cấm kết hôn khi có họ hàng trong phạm vi ba đời có thể có nhiều nguyên do,
trong đó có thể kể đến một vài lý do tiêu biểu như sau:
–
Về mặt sinh học, di truyền: việc kết hôn trong phạm vi ba đời sẽ ảnh hưởng rất
xấu đến thế hệ sau, do việc kết hôn trong phạm vi ba đời về mặt sinh học sẽ khiến
tỷ lệ gen đồng hợp tăng, dị hợp giảm, điều này khiến các gen lặn có hại có điều
kiện để biểu hiện ra ngoài thành biểu hiện như là cơ thể bị dị tật, sức đề
kháng yếu, tỷ lệ tử vong cao, ngoài ra còn khiến cho tỷ lệ các bệnh di truyền
như mắc các bệnh di truyền như bệnh Đao, mù màu, bạch tạng, bại não, đặc biệt
là bệnh tan máu bẩm sinh nguy hiểm có tỷ lệ xuất hiện cao hơn, điều này có thể
là nguyên nhân trực tiếp gây thoái hóa giống nòi dân tộc.
–
Về mặt truyền thống, văn hóa: kết hôn khi trong quan hệ họ hàng gần (phạm vi ba
đời) sẽ ảnh hưởng xấu tới truyền thống văn hóa dân tộc, do việc kết hôn trong họ
hàng có thể nói là mang tính chất loạn luân, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục.
Con
số ba đời là một phạm vi đã được tính toán để đảm bảo được tính toán để đảm bảo
phù hợp về mặt di truyền, để bảo vệ giống nòi và thế hệ sau, cũng là khoảng thế
hệ để đảm bảo không ảnh hưởng đến văn hóa của đất nước.
Quy
định về điều kiện kết hôn hợp pháp
Ngoài
không vi phạm những điều cấm của luật thì một cuộc hôn nhân chỉ được coi là hợp
pháp khi hai bên nam, nữ đáp ứng được những điều kiện sau đây:
–
Về độ tuổi: Luật hôn nhân và gia đình quy định về độ tuổi kết hôn hợp pháp đối
với nam là từ đủ 20 tuổi và với nữ là từ đủ 18 tuổi, đây là độ tuổi mà nam và nữ
đã có thể trang bị đủ cho mình những kiến thức tối thiểu về việc kết hôn cũng
như là đã đến tuổi vị thành niên và có thể tự chịu trách nhiệm đối với mỗi quyết
định của cuộc đời mình.
–
Về mặt ý chí: Nam nữ phải hoàn toàn tự nguyện khi tiến tới hôn nhân, do mục
đích của hôn nhân là để chung sống xây dựng hạnh phúc gia đình như vậy nếu nam
nữ không tự nguyện đến với nhau thì mục đích của hôn nhân liệu còn có thể đạt
được. Do vậy ý chí tự nguyện tiến tới hôn nhân của cả hai bên là một điều kiện
bắt buộc phải có.
–
Về mặt năng lực hành vi dân sự: Khi kết hôn hai bên nam nữ đều phải có đầy đủ
năng lực hành vi dân dự. Điều này được quy định như là để đảm bảo hai người kết
hôn đều xác định được ý chí của mình hoàn toàn tự nguyện và cũng là để họ có thể
tự chịu trách nhiệm với hành vi của mình khi kết hôn. Do hôn nhân và quan hệ vợ
chồng, quan hệ gia đình là thuộc về vấn đề nhân thân do vậy chỉ có những người
trong cuộc mới có thể tự đưa ra quyết định của mình, chính vì vậy khi đăng ký kết
hôn cả hai người đều phải đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
Như vậy khi kết hôn, nếu không vi phạm vào điều cấm mà
luật quy định và đạt được những điều kiện kết hôn trên thì cuộc hôn nhân này mới
được coi là kết hôn hợp pháp.