Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm
số 39/2014/DS-GĐT ngày 09-10-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên
đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là ông Nguyễn Chí
Trải (Cesar Trai Nguyen), chị Nguyễn Thị Thúy Phượng, bà Nguyễn Thị Bích Đào;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Thị Xê, Nguyễn Chí Đạt
(Danforth Chi Nguyen), Nguyễn Thuần Lý, Nguyễn Thị Trinh, Nguyễn Chí Đức,
Nguyễn Thị Thúy Loan, Phạm Thị Liên, Phạm Thị Vui, Trần Đức Thuận, Trần Thành
Khang.
Khái quát nội dung của án
lệ:
Trong vụ án tranh chấp di
sản thừa kế, có đương sự thuộc diện được hưởng một phần di sản thừa kế và có
công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế nhưng không đồng ý
việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), không có
yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào việc quản lý, tôn
tạo di sản thừa kế; nếu Tòa án quyết định việc chia thừa kế cho các thừa kế thì
phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với
di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức.
Quy định của pháp luật
liên quan đến án lệ:
Khoản 1 Điều 5 và Điều 218
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004;
Từ khóa của án lệ:
“Yêu cầu khởi kiện”; “Yêu
cầu phản tố”; “Công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày
18-7-2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn
Thị Xuân trình bày: Cha mẹ các bà là cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê
Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con là bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí
Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông
Nguyễn Chí Trai. Ông Trai có vợ là bà Ông Thị Mạnh và có 05 người con là anh
Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn
Chí Đạt (sinh năm 1966) và anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Tại Quyết định
số 413/2008 ngày 31-3-2008, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên bố
ông Trai, bà Mạnh, anh Thuần Huy, chị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm
1968) là đã chết.
Căn nhà số 263 đường Trần
Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận
chuyển nhượng đất của ông Đào Thành Phụng năm 1953, đến năm 1966 thì hai cụ xây
dựng nhà ở như hiện nay. Nhà đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
ở, quyền sử dụng đất, chỉ mới kê khai năm 1999. Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều không
để lại di chúc, căn nhà hiện nay do chị Nguyễn Thị Thúy Phượng là con ông
Nguyễn Chí Trải đang quản lý. Quá trình quản lý, chị Phượng cho bà Nguyễn Thị
Bích Đào thuê một phần căn nhà để làm lò bánh mì. Khi chị Phượng ở đây có sửa
chữa nhà nhưng không đáng kể. Vợ chồng ông Trải không có đóng góp gì vào việc
xây dựng và sửa chữa vì ông Trải đi cải tạo, còn bà Tư vợ ông Trải không có
nghề nghiệp, con còn bé không có thu nhập để có tiền đóng góp. Nếu chị Phượng
có chứng cứ chứng minh chi phí sửa chữa và yêu cầu thì các bà sẽ trả.
Các nguyên đơn yêu cầu
chia thừa kế căn nhà này theo quy định của pháp luật và xin được nhận nhà, hoàn
lại bằng tiền cho các thừa kế khác. Chị Phượng không thuộc diện thừa kế nên
phải trả lại nhà, không đồng ý hỗ trợ chị Phượng đi nơi khác.
Bị đơn là chị Nguyễn Thị
Thúy Phượng trình bày: Chị thống nhất về quan hệ gia đình. Cha chị là ông
Nguyễn Chí Trải, mẹ chị là bà Nguyễn Thị Tư có 03 người con gồm chị, anh Nguyễn
Chí Đức, chị Nguyễn Thị Thúy Loan (anh Đức, chị Loan hiện sống ở Canada). Căn
nhà số 263 đường Trần Bình Trọng là của ông bà nội chị mua từ năm 1953, khi đó
là nhà ngói, vách ván. Năm 1955, cha chị kết hôn với mẹ chị và cha mẹ chị ở tại
căn nhà này. Năm 1978 cha chị xuất cảnh sang Mỹ, mẹ chị chết năm 1980. Chị sống
tại căn nhà này từ nhỏ đến nay, đã sửa chữa nhà nhiều lần như làm cửa nhôm, xây
tường phần gác lửng, lát gạch men sân thượng, xây tường phía sau nhà. Chị có
phần thừa kế của cha chị vì năm 2006 cha chị đã lập tờ cho đứt chị tài sản thừa
kế ở Việt Nam nên chị được phần thừa kế mà cha chị được hưởng của cụ Hưng, cụ
Ngự. Chị không đồng ý yêu cầu của các nguyên đơn, vì thời hiệu chia thừa kế đã
hết, hiện tại chị và 02 con của chị đang sống tại căn nhà này. Chị có cho bà
Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần nhà làm lò bánh mì, chị và bà Đào sẽ tự giải
quyết với nhau về việc thuê nhà.
Bị đơn là ông Nguyễn Chí
Trải trình bày: Tại văn bản ngày 14-10-2009, ông Trải có đơn đề nghị có nội
dung ngày 25-4-2006 ông có giấy cho đứt tài sản thừa kế của ông cho chị Phượng
được hưởng phần tài sản thừa kế mà ông được hưởng của cha mẹ tại Việt Nam, nay
ông xin hủy bỏ văn bản trên và bằng văn bản này ông xin ủy quyền cho bà Thường,
bà Xuân thay mặt ông tại Tòa án, khi Tòa xét xử xong phần tài sản thừa kế của
ông xin được trao hết cho con trai ông là anh Nguyễn Chí Đức hiện cư trú tại
Canada.
Sau khi xét xử sơ thẩm,
ngày 22-4-2010, ông Trải có Đơn tường trình nội dung ông không đồng ý chia thừa
kế nhà 263 Trần Bình Trọng mà giao cho chị Phượng tiếp tục trông nom để ở, ông
và vợ ông đã có công sức đóng góp tiền của vào căn nhà này. Nhưng đến ngày
14-7-2010, ông Trải lại có văn bản có nội dung ông cho con trai là anh Nguyễn
Chí Đức phần tài sản ông được nhận thừa kế của cha mẹ. Ngày 11-3-2011, ông Trải
có Tờ tường trình nội dung ông đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm, ông
không kháng cáo.
Người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị Trinh (là
con cụ Hưng, cụ Ngự) trình bày: Bà thống nhất như trình bày của các nguyên đơn
về quan hệ gia đình và nguồn gốc tài sản. Năm 1966 nhà bị hư dột, cha mẹ bà có
sửa lại nhà có sự đóng góp của các con trong đó có bà nhưng bà không yêu cầu
phần bà đã đóng góp. Việc chị Phượng cho rằng cha mẹ chị và chị có đóng góp
trong việc sửa chữa nhà là không đúng. Bà đề nghị kỷ phần thừa kế của bà giao
cho bà Xuân, bà Thưởng quản lý; đề nghị bà Đào, chị Phượng trả lại nhà.
- Anh Nguyễn Chí Đạt (sinh
năm 1966), anh Nguyễn Thuần Lý trình bày: Cha mẹ các anh là ông Nguyễn Chí
Trai, bà Ông Thị Mạnh cùng 03 người em của các anh đều đã chết trên biển khi
vượt biên vào năm 1982. Các anh đồng ý với ý kiến của nguyên đơn về việc chia
thừa kế, xin được hưởng thừa kế tài sản của cụ Hưng, cụ Ngự và giao cho bà
Thưởng, bà Xuân quản lý.
- Bà Nguyễn Thị Xê (là con
của cụ Hưng, cụ Ngự) thống nhất với trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia
đình và yêu cầu của các nguyên đơn, kỷ phần thừa kế bà được hưởng cho 02 con
của bà là Phạm Thị Vui và Phạm Thị Liên.
- Lời khai của chị Nguyễn
Thị Thúy Loan, anh Nguyễn Chí Đức theo giấy ủy quyền lập ngày 21-5-2007 (đã
được hợp pháp hóa lãnh sự) thì chị Loan, anh Đức ủy quyền cho chị Phượng quyết
định mọi sự việc liên quan đến những tranh chấp hay phân chia tài sản và nhà
đất bên Việt Nam (Giấy ủy quyền này do chị Phượng xuất trình theo đơn của chị
Phượng đề ngày 25-3-2011, sau khi xét xử sơ thẩm).
Chị Loan có đơn (kèm theo
văn bản ủy quyền) có nội dung xin vắng mặt phiên tòa ngày 13-8-2009. Về tài sản
tranh chấp cha mẹ chị có tiền đóng góp, còn các cô chú khác không đóng góp gì.
Sau năm 1975, mọi người đi hết, chỉ còn mình chị Phượng ở với ông bà, đề nghị
Tòa cho chị Phượng ở lại nhà đất tranh chấp.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm
số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết
định:
- Xác định nhà đất tại 263
Trần Bình Trọng là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn Hưng, cụ Lê Thị Ngự; mỗi kỷ
phần thừa kế được hưởng là 10.655.687.000: 6 = 1.775.947.800 đồng.
- Buộc mẹ con chị Phượng
và bà Đào giao lại nhà đất tranh chấp cho bà Thưởng, bà Xuân. Bà Thường, bà
Xuân có trách nhiệm trả cho các thừa kế khác bằng tiền mà họ được hưởng.
- Ghi nhận việc ông Nguyễn
Chí Trải cho con là anh Nguyễn Chí Đức được nhận kỷ phần thừa kế của ông.
Ngày 30-11-2009, chị
Nguyễn Thị Thúy Phượng có đơn kháng cáo có nội dung cho rằng cụ Hưng, cụ Ngự
chết đã quá 10 năm nên thời hiệu khởi kiện về thừa kế không còn.
Ngày 15-3-2011, chị Phượng
có đơn kháng cáo bổ sung nội dung:
- Cha chị là ông Trải
không đồng ý chia và đồng ý cho chị quản lý căn nhà này. Các đồng thừa kế không
có văn bản xác nhận nhà tranh chấp là tài sản chung chưa chia. Cha mẹ chị và
các con trong đó có chị đã sống ổn định hơn 50 năm tại căn nhà này, đã bảo
quản, giữ gìn căn nhà nhưng nay lại buộc mẹ con chị phải ra khỏi nhà là không
thấu tình đạt lý.
Tại Bản án dân sự phúc
thẩm số 116/2011/DS-PT ngày 10-5-2011, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Ngày 16-6-2011, chị Nguyễn
Thị Thúy Phượng có đơn đề nghị giám đốc thẩm Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số
158/2014/KN-DS ngày 06-5-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị
Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân
sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ
thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc
thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí kháng nghị của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao nhận định:
Vợ chồng cụ Nguyễn Văn
Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con gồm bà
Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng,
bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Vợ chồng ông Nguyễn Chí Trai, bà
Ông Thị Mạnh có 05 người con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị
Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966), anh Nguyễn Chí Đạt
(sinh năm 1968). Ông Trai, bà Mạnh, anh Huy, chị Đường, anh Nguyễn Chí Đạt
(sinh năm 1968) bị tuyên bố chết ngày 31-3-2008 theo Quyết định số 413/2008
ngày 31-3-2008 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều
không để lại di chúc. Các con của hai cụ và chị Phượng (con ông Trải) đều thừa
nhận căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí
Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng của ông Đào Thành Phụng năm 1953 là
tài sản của hai cụ tạo lập, hiện tại đang do chị Phượng quản lý, sử dụng.
Năm 2008, bà Xuân, bà
Thưởng khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Hưng, cụ Ngự để lại.
Các đương sự đều xác định
ông Trải định cư tại Mỹ trước ngày 01-7-1991. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn
cứ Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội xác định thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của cụ Hưng vẫn còn là
có cơ sở. Đối với di sản của cụ Ngự thì đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia
thừa kế, nhưng ông Trải và các đồng thừa kế của hai cụ đều thừa nhận di sản của
cụ Ngự là tài sản chung của các thừa kế chưa chia và đều nhất trí chia đều cho
các thừa kế. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ tiểu mục a điểm 2.4
mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết
các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình để chia phần di sản của cụ Ngự cho các thừa
kế là có căn cứ.
Cụ Hưng chết năm 1978,
theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng
1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng
là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế
của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị
Phượng. Như vậy, chị Phượng được hưởng một phần tài sản của mẹ là bà Tư, nhưng
ông Trải đã định đoạt toàn bộ kỷ phần thừa kế mà ông được hưởng của cụ Hưng cho
anh Đức là chưa đúng.
Chị Phượng sinh năm 1953
và các đương sự xác định chị Phượng ở tại nhà của ông, bà từ nhỏ đến nay. Từ
năm 1982, chị Phượng đã là chủ hộ khẩu tại nhà đất này, cụ Ngự còn sống nhưng ở
nơi khác, bà Thưởng chuyển hộ khẩu về tại đây từ năm 1979 nhưng không ở đây,
nên chị Phượng đã trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất tranh chấp từ sau khi cụ
Ngự chết đến nay. Các đương sự khác đều có nơi ở ổn định nơi khác. Khi chia
thừa kế và tài sản chung, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xem xét tạo điều
kiện cho chị Phượng có chỗ ở mà buộc chị Phượng phải giao lại nhà cho các
nguyên đơn trong đó có phần quyền tài sản chị Phượng được hưởng thừa kế của mẹ
là bà Tư là chưa phù hợp.
Tuy chị Phượng không phải
thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của
hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá
trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng
cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các
thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn
yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét
công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào
khoản 3 Điều 297, khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2011;
QUYẾT ĐỊNH
Hủy toàn bộ Bản án dân sự
phúc thẩm số 116/2011/DS-PT ngày 10-5-2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số
3363/2009/DSST ngày 18-11-2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ
án tranh chấp thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà
Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là chị Nguyễn Thị Thúy Phượng và những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp
luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“Cụ Hưng chết năm 1978,
theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng
1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng
là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế
của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng.
Tuy chị Phượng không phải
thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của
hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá
trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng
cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các
thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn
yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét
công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.”