Trong
ngày 31 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Xuyên xét xử sơ
thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 36/2017/TLST - DS ngày 29 tháng 3
năm 2017, về việc “Tranh chấp hụi” theo quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 25/2017/QĐST – DS ngày 26 tháng 6 năm 2017 và
quyết định hoãn phiên tòa số 29/2017/QĐST-DS ngày 19/7/2017, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn
Ngọc H, sinh năm 1970.
Địa chỉ: Đường T,
phường A, thành phố T, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn: Ông Lƣu Trí D, sinh năm 1959 (có mặt).
Địa chỉ: đường P, khóm
B, phường C, thành phố T, tỉnh Sóc Trăng.
- Bị đơn: 1. Bà Trần
Thị V, sinh năm 1966 (có mặt);
2. Ông Lưu Kính L, sinh
năm 1968 (vắng mặt). Cùng địa chỉ: ấp T, xã T, huyện X, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG
VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện
ngày 20/3/2017, các phiên hòa giải, chứng cứ có trong hồ sơvụ án cũng như tại
phiên toà ngày hôm nay đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, ông Lưu Trí D
trình bày:
Vợ chồng bà Trần Thị V
và ông Lưu Kính L làm chủ hụi, bà Nguyễn Ngọc H có tham gia chơi hụi như sau:
Dây hụi thứ nhất: Khui
ngày 11/10/2015, mỗi chân là 500.000 đồng, dây hụi này bà H góp 10 chân, gồm 39
thành viên. Bà H góp vào được 31 chân với tổng số tiền 155.000.000 đồng, dự
tính đến ngày 18/11/2016 mãn hụi.
Dây hụi thứ 2: Khui
ngày 08/4/2016, mỗi chân 1.000.000 đồng, bà H góp vào 03 chân, có 40 thành viên
tham gia. Bà H đóng được cho vợ chồng bà V được 12 lần với tổng số tiền
36.000.000 đồng. Dự kiến đến ngày 26/02/2017 mãn hụi nhưng đến ngày 31/8/2016,
thì vợ chồng bà Trần Thị V công bố ngưng hụi.
Tổng số tiền 02 dây hụi
bà H góp cho bà V là 191.000.000 đồng. Sau đó vợ chồng bà V có trả cho bà H
được 12.000.000 đồng nên vợ chồng bà V còn nợ bà H số tiền 179.000.000 đồng.
Tại các phiên hòa giải
và phiên tòa hôm nay, bà Trần Thị V chỉ thừa nhận số hụi sống còn nợ bà H là
136.300.000 đồng, nên ông D thống nhất theo số nợ này. Nay, ông D yêu cầu Tòa
án giải quyết buộc bà Trần Thị V và ông Lưu Kính L phải hoàn trả cho bà H số
tiền hụi 136.300.000 đồng đồng và yêu cầu tính lãi theo lãi suất 0,83%/tháng
tính từ ngày mãn hụi là ngày 31/8/2016 đến ngày xét xử sơ thẩm.
- Tại các phiên hòa
giải và tại phiên tòa, bị đơn bà Trần Thị V trình bày:
Nguyên vào ngày
11/10/2015, bà làm chủ hụi, bà H tham gia chơi hụi như sau:
+ Dây hụi thứ nhất:
Khui ngày 11/10/2015, mỗi chân là 500.000 đồng, dây hụi này bà H góp 10 chân,
gồm 39 thành viên. Bà H góp vào được 31 lần: 31 lần x 400.000 đồng/lần =
12.400.000 đồng, trừ tiền cò 300.000 đồng còn 12.100.000 đồng x 10 chân =
121.000.000 đồng. Như vậy dây hụi này bà còn nợ bà H 121.000.000 đồng.
+ Dây hụi thứ 2: Khui
ngày 08/4/2016, mỗi chân hụi là 1.000.000 đồng, bà H góp 03 chân, có 40 thành
viên tham gia. Bà H đóng được 12 lần: 12 lần x 800.000 đồng/lần = 9.600.000
đồng, trừ tiền cò 500.000 đồng = 9.100.000 đồng x 3 chân = 27.300.000 đồng. Như
vậy dây hụi này bà còn thiếu bà H 27.300.000 đồng.
Tổng số tiền 02 dây hụi
bà H góp cho bà là 148.300.000 đồng. Sau đó bà có trả cho bà H được 12.000.000
đồng, hiện nay bà còn nợ bà H số tổng tiền 136.300.000 đồng.
Nay bà chỉ đồng ý trả
cho bà H số tiền hụi sống là 136.300.000 đồng, không đồng ý trả lãi nhưng hiện
nay hoàn cảnh gia đình bà khó khăn không có khả năng trả nợ. Bà và ông L là vợ
chồng nhưng số tiền hụi do bà làm chủ hụi có được bà dùng để chi sài cá nhân và
do bị người khác giật hụi nên bà không có tiền trả cho bà H. Ông L không tham
gia chơi hụi nên bà không yêu cầu ông L cùng trả tiền nợ hụi với bà.
- Đối với bị đơn ông
Lưu Kính L: Ông L đã được Tòa án cấp tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án,
thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ,
hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn
vắng mặt. Tại đơn yêu cầu ngày 14/4/2017, ông Lưu Kính L trình bày ông không
chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn vì ông không biết chơi hụi và cũng không tham
gia chơi hụi.
Tại phiên tòa Kiểm sát
viên trình bày: Trong quá trình thụ lý và tại phiên tòa Thẩm phán và Hội đồng
xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị
đơn là ông Lưu Kính L, Tòa án triệu tập và tống đạt hợp lệ các văn bản theo thủ
tục tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do là chưa chấp hành đúng theo quy định
pháp luật. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, buộc các bị đơn là Trần Thị V và Lưu Kính L có trách nhiệm
liên đới trả cho nguyên đơn số tiền hụi
là 136.300.000 đồng và tiền lãi với lãi suất 0,83%/tháng tính từ ngày
31/8/2016 đến ngày xét xử sơ thẩm là 12.444.190 đồng. Tổng số tiền là
148.744.190 đồng.
NHẬN ĐỊNH
CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài
liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả
tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, lời
trình bày của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng: Tại phiên
tòa hôm nay, bị đơn ông Lưu Kính L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai
nhưng vẫn vắng mặt, không lý do. Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng điểm b
khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành
xét xử vắng mặt đối với ông Lưu Kính L.
Theo đơn khởi kiện,
nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền hụi là 179.000.000 đồng và yêu cầu tính
lãi 1,66%/tháng, nhưng tại phiên tòa ngày hôm nay đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu bị đơn trả số tiền hụi còn thiếu
là 136.300.000 đồng và yêu cầu tính lãi với lãi suất 0,83%/tháng tính từ ngày
31/8/2016 đến ngày xét xử sơ thẩm. Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu của nguyên
đơn không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu, nên Hội đồng xét xử căn
cứ khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận việc thay đổi
này.
- Về nội dung vụ án:
Tại phiên tòa, đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn bà Trần Thị
V và ông Lưu Kính L phải hoàn trả cho nguyên đơn số tiền hụi là 136.300.000
đồng và yêu cầu tính lãi theo lãi suất 0,83%/tháng trên số tiền hụi 136.300.000
đồng tính từ ngày mãn hụi là ngày 31/8/2016 đến khi kết thúc vụ án. Bị đơn bà
Trần Thị V cũng thống nhất số tiền hụi
hiện nay còn nợ nguyên đơn là 136.300.000 đồng. Như vậy, đại
diện của nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền
hụi là 136.300.000 đồng, căn cứ vào khoản 1 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 thì đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh. Theo quy định tại
Điều 15 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày
27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường thì chủ họ (chủ hụi) phải có
nghĩa vụ “giao các phần họ cho thành viên được lĩnh họ”. Bà Trần Thị V là chủ
hụi, đã thu tiền hụi của nguyên đơn nhưng khi nguyên đơn được lĩnh hụi thì bà V
chưa giao phần hụi được lĩnh cho nguyên đơn là vi phạm theo Điều 15 Nghị định
số 144/2006/NĐ-CP.
Về tiền lãi: Người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn bà Trần
Thị V và ông Lưu Kính L phải trả tiền lãi cho nguyên đơn theo lãi suất
0,83%/tháng trên số tiền hụi gốc là 136.300.000 đồng tính từ ngày mãn hụi là
ngày 31/8/2016 đến khi kết thúc vụ án. Tuy nhiên bị đơn Trần Thị V không đồng ý
trả lãi. Phía nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất ngày mãn hụi là ngày
31/8/2016. Xét thấy hụi mà nguyên đơn và bị đơn chơi là có lãi nên việc nguyên
đơn yêu cầu bị đơn trả lãi với lãi suất 0,83%/tháng là phù hợp theo quy định
tại khoản 2 Điều 468, khoản 3 Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu tính lãi của nguyên đơn, cụ thể như sau: 136.300.000 đồng x
0,83%/tháng x 11 tháng = 12.444.190 đồng. Tổng số tiền gốc và lãi là
148.744.190 đồng.
Bị đơn bà Trần Thị V
trình bày bà và ông L là vợ chồng nhưng số tiền hụi do bà làm chủ hụi có được
bà dùng để chi sài cá nhân và do bị người khác giật hụi nên bà không có tiền
trả cho nguyên đơn. Ông L không tham gia chơi hụi nên bà không yêu cầu ông Liêm
cùng trả tiền nợ hụi với bà. Ông Lưu Kính L cũng trình bày ông không biết chơi
hụi và không có tham gia chơi hụi nên ông không đồng ý trả tiền hụi theo yêu
cầu nguyên đơn. Hội đồng xét xử xét thấy, theo quy định tại Điều 27 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với
giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Tuy
nhiên bị đơn bà Trần Thị V và ông Lưu Kính L là vợ chồng nhưng cả bà V và ông L
đều không chứng minh được việc sử dụng tiền chơi hụi sử dụng vào mục đích riêng
của bà V, không sử dụng vào sinh hoạt thiết yếu của gia đình và trong thời gian
bà V làm chủ hụi thì ông L đều biết, do vậy ông L phải có nghĩa vụ liên đới trả
nợ cùng bà V là có cơ sở.
Từ những phân tích nêu
trên cho thấy việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn bà Trần Thị V và ông Lưu Kính L
phải trả số tiền hụi là 136.300.000 đồng và tiền lãi là 12.444.190 đồng là có
căn cứ được chấp nhận.
Về án phí dân sự sơ
thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí đối với phần yêu cầu tính lãi không được chấp
nhận. Bị đơn phải chị u án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng
dân sự và theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án;
Về vấn đề kiểm sát viên
nêu là có căn cứ Hội đồng xét xử ghi nhận. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 14 Điều
26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91; khoản 1 Điều 92;
Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 244; Điêu
271; khoản 1,3 Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Áp dụng khoản 2 Điều
468, khoản 3 Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 10; Điều
15 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu,
phường.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Ngọc H.
Buộc bị đơn bà Trần Thị
V và ông Lưu Kính L có trách nhiệm liên đới trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Ngọc H
số tiền hụi là 148.744.190 đồng (một trăm bốn mươi tám triệu bảy trăm bốn mươi
bốn ngàn một trăm chín mươi đồng). Trong đó tiền vốn là 136.300.000 đồng và
tiền lãi 12.444.190 đồng.
Về án phí dân sự sơ
thẩm:
- Nguyên đơn bà Nguyễn
Ngọc H không phải chiu án phí sơ thẩm và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí
đã nộp 5.069.280 đồng theo biên lai thu tiền số 0005162 ngày 28/3/2017 của Chi
cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên.
- Bị đơn bà Trần Thị V
và ông Lưu Kính L phải liên đới chịu án phí sơ thẩm số tiền 7.437.209 đồng, nộp
tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
Khi bản án có hiệu lực
pháp luật, kể từ ngày bà Nguyễn Ngọc H có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng
tháng bà Trần Thị V và ông Lưu Kính L còn phải trả lãi cho bà Nguyễn Ngọc H
theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, đối với số tiền chậm thi hành án.
Các đương sự được quyền
kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Toà
án nhân dân tỉnh Sóc Trăng giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự
vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp Bản án được
thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi
hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.