Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm
số 27/2010/DS-GĐT ngày 08-7-2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
về vụ án “Tranh chấp đòi lại tài sản” tại tỉnh Sóc Trăng giữa nguyên đơn là bà
Nguyễn Thị Thảnh với bị đơn là ông Nguyễn Văn Tám; người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là bà Nguyễn Thị Yêm.
Khái quát nội dung của án
lệ:
Trường hợp người Việt Nam
định cư ở nước ngoài đã bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
nhờ người ở trong nước đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ mình,
khi giải quyết tranh chấp thì Tòa án phải xem xét và tính công sức bảo quản,
giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất cho người đứng tên hộ;
trường hợp không xác định được chính xác công sức của người đó thì cần xác định
người thực chất trả tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và người đứng
tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ có công sức ngang nhau để chia phần
giá trị chênh lệch tăng thêm so với tiền gốc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ban đầu.
Quy định của pháp luật
liên quan đến án lệ:
Điều 137 và Điều 235 của
Bộ luật dân sự năm 2005.
Từ khóa của án lệ:
“Giao dịch dân sự vô
hiệu”; “Đòi lại tài sản”; “Căn cứ xác lập quyền sở hữu”; “Xác lập quyền sở hữu
đối với lợi tức”; “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày
24-01-2005, tờ khai ngày 07-02-2005 và quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị
Thảnh là nguyên đơn trình bày:
Bà Thảnh là Việt kiều ở Hà
Lan về thăm thân nhân tại Việt Nam và có ý định chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, nên ngày 10-8-1993, bà có nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Hêng Tính,
bà Lý Thị Sà Quênh diện tích 7.595,7m2 đất ruộng tại Phường 7, thị
xã Sóc Trăng với giá 21,99 chỉ vàng. Bà là người trực tiếp giao dịch, thỏa
thuận việc chuyển nhượng và trả tiền, vàng cho vợ chồng ông Hêng Tính. Mục đích
của bà Thảnh là chuyển nhượng đất để giao cho em ruột của bà là ông Nguyễn Văn
Tám và bà Nguyễn Thị Chính Em canh tác nuôi cha mẹ của bà và ông Tám. Do bà là
người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên bà để cho ông Tám đứng tên trong giấy
tờ sang nhượng. Đồng thời, bà Thảnh xuất trình “Tờ sang nhượng đất ruộng” lập
ngày 10-8-1993 có xác nhận của UBND xã An Hiệp. Sau khi nhận chuyển nhượng bà
để cho vợ chồng ông Tám canh tác, nhưng năm 2004, không được bà đồng ý, ông Tám
đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích 7.595,7m2 đất trên cho Công ty
trách nhiệm hữu hạn Minh Châu với giá trị quyền sử dụng đất là 1.260.000.000
đồng. Vì vậy, bà yêu cầu ông Tám trả lại số tiền thu được từ việc chuyển nhượng
đất của bà.
Ông Nguyễn Văn Tám là bị
đơn trình bày:
Diện tích 7.595,7m2
đất mà bà Thảnh tranh chấp là đất do vợ chồng ông là người bỏ tiền, vàng ra
sang nhượng lại của vợ chồng ông Hêng Tính, ông là người đứng tên trong “Tờ
sang nhượng đất ruộng” lập ngày 10-8-1993. Tờ sang nhượng này không có xác nhận
của chính quyền địa phương. Nhưng sau đó, ông và vợ chồng ông Hêng Tính còn ký
bản hợp đồng và đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất cùng ngày 11-8-1993,
các văn bản này có xác nhận của UBND xã An Hiệp và của UBND huyện Mỹ Tú đồng ý
cho chuyển nhượng. Sau khi chuyển nhượng ông đã đăng ký, kê khai được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 28-5-1994. Do đó, năm 2004, ông chuyển
nhượng toàn bộ đất trên cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Châu với giá trị
là 1.260.000.000 đồng. Ông cho rằng “Tờ sang nhượng đất ruộng” lập ngày 10-8-1993,
có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã An Hiệp do bà Thảnh xuất trình là giả vì
theo Bản kết luận giám định số 2784/C21 (P7) ngày 25-10-2005 của Viện Khoa học
Hình sự Tổng cục cảnh sát thì không phải chữ ký của ông trong tờ sang nhượng
đất ruộng do bà Thảnh xuất trình. Vì vậy, ông không đồng ý theo yêu cầu khởi
kiện của bà Thảnh.
Bà Nguyễn Thị Yêm (vợ của
ông Tám) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Năm 1993 vợ chồng
bà có chuyển nhượng đất của ông Hêng Tính. Khi làm thủ tục chuyển nhượng bà
không tham gia nhưng bà có đưa tiền, vàng cho ông Tám trả cho vợ chồng ông Hêng
Tính nên bà cũng không chấp nhận theo yêu cầu của bà Thảnh.
Vợ chồng ông Hêng Tính, bà
Lý Thị Sà Quênh (tên gọi khác là Lý Thị Sà Vênh) là người chuyển nhượng đất đều
khẳng định bà Thảnh trực tiếp thỏa thuận chuyển nhượng, trực tiếp trả 21,99 chỉ
vàng cho ông, bà và bà Thảnh để cho ông Tám đứng tên giùm trong tờ sang nhượng
đất ruộng lập ngày 10-8-1993; chữ ký trong tờ sang nhượng đất ruộng do bà Thảnh
xuất trình đúng là chữ ký của ông, bà.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm
số 04/2006/DS-ST ngày 28-4-2006, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu
của bà Nguyễn Thị Thảnh về việc đòi lại tiền chuyển nhượng đất.
Buộc vợ chồng ông Nguyễn
Văn Tám, bà Nguyễn Thị Yêm phải có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Thảnh
630.000.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ
thẩm còn quyết định về án phí, chi phí giám định và tuyên quyền kháng cáo cho
các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 10-5-2006, ông Nguyễn
Văn Tám kháng cáo cho rằng bà Thảnh không phải là người có quyền sử dụng phần
đất mà ông đã chuyển nhượng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Châu nhưng Tòa
án cấp sơ thẩm buộc ông thanh toán cho bà Thảnh 630.000.000 đồng là không đúng.
Ngày 12-5-2006, ông Nguyễn
Hữu Phòng (đại diện cho bà Thảnh) kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử
buộc ông Tám trả lại toàn bộ số tiền mà ông Tám đã chuyển nhượng đất là
1.260.000.000 đồng cho bà Thảnh.
Tại Bản án dân sự phúc
thẩm số 334/2006/DS-PT ngày 25-8-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: bác yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và
bị đơn, sửa Bản án sơ thẩm như sau:
Chấp nhận một phần yêu cầu
của bà Nguyễn Thị Thảnh về việc đòi lại tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Buộc ông Nguyễn Văn Tám,
bà Nguyễn Thị Yêm có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Thảnh số tiền
27.047.700 đồng tương đương 21,99 chỉ vàng 24k.
Buộc vợ chồng ông Nguyễn
Văn Tám và bà Nguyễn Thị Yêm phải nộp lại số tiền 1.232.266.860 đồng để sung
công quỹ Nhà nước.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc
thẩm còn quyết định về án phí.
Sau xét xử phúc thẩm, ông
Nguyễn Văn Tám khiếu nại Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số
449/2009/KN-DS ngày 21-8-2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản
án dân sự phúc thẩm số 334/2006/DS-PT ngày 25-8-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án phúc thẩm nêu trên và hủy Bản
án dân sự sơ thẩm số 04/2006/DS-ST ngày 28-4-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm lại
theo đúng quy định của pháp luật, với nhận định:
“Bà Nguyễn Thị Thảnh khởi
kiện đòi lại tài sản đối với ông Nguyễn Văn Tám và cho rằng do bà là người Việt
Nam định cư ở nước ngoài nên bà có nhờ ông Tám (em của bà) đứng tên nhận chuyển
nhượng đất của vợ chồng ông Hêng Tính giùm cho bà nhưng sau đó ông Tám đã
chuyển nhượng đất của bà cho người khác.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa
án cấp phúc thẩm xác định ông Tám chỉ đứng tên nhận chuyển nhượng đất của vợ
chồng ông Hêng Tính giùm cho bà Thảnh là có căn cứ.
Do bà Thảnh là người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, nên bà Thảnh không được giao đất mà chỉ được trả lại
phần giá trị đầu tư tiền chuyển nhượng đất.
Đối với chênh lệch giá trị
đất, thời điểm xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm là thời điểm thi hành Bộ luật
dân sự năm 2005, không có quy định buộc phải tịch thu sung công quỹ nên khoản
chênh lệch này bà Thảnh và ông Tám cùng được hưởng. Tòa án cấp sơ thẩm không
buộc ông Tám nộp số tiền chênh lệch giá trị đất để sung công là có căn cứ nhưng
không buộc ông Tám trả cho bà Thảnh giá trị đầu tư ban đầu là không đúng. Tòa
án cấp phúc thẩm không đưa ra được căn cứ pháp luật nhưng đã buộc ông Tám nộp
toàn bộ số tiền chênh lệch (1.232.226.860 đồng) để sung công quỹ Nhà nước là
không đúng quy định, của pháp luật”.
Tại phiên tòa giám đốc
thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hủy
Bản án phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2006/DS-ST ngày
28-4-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao nhận định:
Bà Nguyễn Thị Thảnh khởi
kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn Tám trả lại cho bà 1.260.000.000 đồng vì cho rằng
bà là người trực tiếp giao dịch, trả tiền nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông
Hêng Tính 7.595,7m2 đất, nhưng vì bà là người Việt Nam định cư ở
nước ngoài nên nhờ ông Tám (em của bà) đứng tên, nhưng không được bà đồng ý ông
Tám đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất cho Công ty TNHH Minh Châu để nhận
1.260.000.000 đồng.
Ông Tám cho rằng ông là
người thỏa thuận chuyển nhượng đất và trả tiền cho ông Hêng Tính, nên giấy tờ
chuyển nhượng đất ông đứng tên. Sau khi nhận chuyển nhượng ông trực tiếp quản
lý sử dụng, đăng ký kê khai, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và khi
ông chuyển nhượng cho Công ty TNHH Minh Châu được chính quyền cho phép, nên ông
không chấp nhận yêu cầu của bà Thảnh.
Tuy nhiên, quá trình giải
quyết vụ án vợ chồng ông Tám có nhiều lời khai mâu thuẫn về số tiền, vàng đã
trả cho ông Hêng Tính và ông cũng không chứng minh được nguồn gốc nguồn tiền
vàng mà ông cho rằng đã trả cho ông Tính.
Trong khi đó vợ chồng ông
Tính, bà Quênh khẳng định chỉ thỏa thuận chuyển nhượng đất và nhận vàng của bà
Thảnh còn việc viết giấy chuyển nhượng đất đứng tên ông Tám là theo yêu cầu của
bà Thảnh, vì bà Thảnh đang định cư ở nước ngoài.
Theo lời khai của cụ Thái
Thị Ba, ông Nguyễn Phước Hoàng, bà Nguyễn Thị Chính Em (là mẹ và anh chị em
ruột của bà Thảnh, ông Tám) thì bà Thảnh giao dịch, trả tiền chuyển nhượng đất
cho vợ chồng ông Tính, còn ông Tám chỉ là người đứng tên giùm.
Tổng hợp các chứng cứ nêu
trên có cơ sở khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định bà
Thảnh là người bỏ toàn bộ số tiền là 21,99 chỉ vàng để nhận chuyển nhượng diện
tích trên, còn ông Tám chỉ là người đứng tên giùm. Do ông Tám đã chuyển nhượng
đất trên cho Công ty TNHH Minh Châu và bà Thảnh chỉ yêu cầu ông Tám trả lại số
tiền đã chuyển nhượng là 1.260.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm
thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật.
Tuy bà Thảnh là người bỏ
21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng
giấy tờ chuyển nhượng đứng tên ông Tám và sau khi nhận chuyển nhượng ông Tám
quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định
ông Tám có công sức trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất
nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng
của bà Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông Tám. Đồng thời xác định
công sức của ông Tám để chia cho ông Tám một phần tương ứng với công sức của
ông mới đúng và đảm bảo quyền lợi của các đương sự (Trường hợp không xác định
được chính xác công sức của ông Tám thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có công
sức ngang nhau để chia).
Tòa án cấp sơ thẩm công
nhận bà Thảnh, ông Tám mỗi người có quyền sở hữu 1/2 số tiền trên nhưng không
trích trả cho bà Thảnh số tiền tương ứng với 21,99 chỉ vàng là không đúng.
Tòa án cấp phúc thẩm chỉ
công nhận bà Thảnh có quyền sở hữu số tiền tương ứng với 21,99 chỉ vàng, còn
lợi nhuận là số tiền còn lại tịch thu sung công quỹ nhà nước là không đúng với
quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.
Ngoài ra, bà Thảnh khởi
kiện yêu cầu ông Tám trả cho bà 1.260.000.000 đồng là số tiền ông Tám chuyển
nhượng giá trị quyền sử dụng 7.595,7m2 đất, mà không tranh chấp
quyền sử dụng đất, còn ông Tám cho rằng số tiền trên là của ông. Như vậy, các
đương sự tranh chấp quyền sở hữu tài sản là số tiền nêu trên. Nhưng Tòa án cấp
sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp
đòi lại tài sản” là không chính xác.
Bởi các lẽ trên, căn cứ
khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH
1- Hủy Bản án dân sự phúc
thẩm số 334/2006/DSPT ngày 25-8-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2006/DS-ST ngày
28-4-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về vụ án tranh chấp đòi lại tài
sản giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thành với bị đơn là ông Nguyễn Văn Tám; người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Yêm.
2- Giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của
pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“Tuy bà Thảnh là người bỏ
21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng
giấy tờ chuyển nhượng đứng tên ông Tám và sau khi nhận chuyển nhượng ông Tám
quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định
ông Tám có công sức trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất
nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng
của bà Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông Tám. Đồng thời xác định
công sức của ông Tám để chia cho ông Tám một phần tương ứng với công sức của
ông mới đúng và đảm bảo quyền lợi của các đương sự (Trường hợp không xác định
được chính xác công sức của ông Tám thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có công
sức ngang nhau để chia).”