Trong
các ngày 18 và 23 tháng 5 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị
xã Thuận An, xét xử sơ thẩm công khai
vụ án thụ lý số 10/2017/TLST-LĐ ngày 14/02/2017 về việc “Tranh
chấp về chấm dứt hợp đồng làm việc”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
44/2017/QĐST-LĐ ngày 04/4/2017, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1980; trú tại: Ấp
An P, xã Định A, huyện Dầu T, tỉnh Bình Dương. Có mặt.
Bị đơn: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Văn H, sinh
năm 1958, Trưởng Phòng Nội vụ thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương (theo văn
bản ủy quyền ngày 27/02/2017). Có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Ngày 13/02/2017 nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu H có đơn khởi
kiện và ngày 28/02/2017 khởi kiện bổ sung cho rằng:
Theo Quyết định số 304/QĐ-UBND ngày 19/8/2015 của Phòng Giáo dục
và đào tạo thị xã Thuận An về việc điều động, thuyên chuyển cán bộ, công chức,
viên chức thì nguyên đơn được phân công đến nhận công tác tại Trường tiểu học
Trần Quốc Toản với nhiệm vụ dạy học từ ngày 24/8/2015. Đến ngày 11/9/2015,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An đã ban hành Quyết định số 4924/QĐ-UBND
về việc tuyển dụng và phân công công tác cho viên chức ngành Giáo dục và đào
tạo năm học 2015- 2016, theo Quyết định thì nguyên đơn được tuyển dụng
theo hình thức hợp đồng không thời hạn, công việc là Giáo viên dạy lớp Tiểu
học, thời gian hợp đồng kể từ ngày 24/8/2015, thời gian thử việc 6 tháng
và được hưởng lương theo quy định.
Nguyên đơn cho rằng trong quá trình công tác đã hoàn thành tốt
công việc được giao. Tuy nhiên, ngày 25/8/2016 nguyên đơn được Ban giám hiệu
nhà trường mời lên phòng buộc ký vào đơn xin nghỉ việc với lý do không hoàn
thành tập sự, đơn do nhà trường soạn sẵn. Đến ngày 24/8/2016 Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thị xã Thuận An ban hành Quyết định số 4803/QĐ-UBND về việc giải quyết
cho nguyên đơn nghỉ việc từ ngày 01/9/2016. Do đó, nguyên đơn khởi kiện và
khởi kiện bổ sung với các yêu cầu sau:
- Hủy Quyết định số 4803/QĐ-UBND ngày 24/8/2016 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thị xã Thuận An và nhận nguyên đơn trở lại làm việc;
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An có trách nhiệm thanh
toán các khoản tiền cho nguyên đơn:
Tiền lương trong thời gian nguyên đơn không được làm việc tạm
tính từ ngày 01/9/2016 đến ngày 01/5/2017 là 8 tháng x 3.500.000
đồng/tháng = 28.000.000 đồng;
Chi trả tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từ tháng 09/2016 đến
hết tháng04/2017 là 8 tháng tương ứng với số tiền 5.880.000 đồng.
Bồi thường 02 tháng tiền lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động với số tiền 3.500.000 đồng x 2 = 7.000.000 đồng.
Tổng cộng các khoản tiền là: 40.880.000 đồng.
Tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp gồm:
- Quyết định số 304/QĐ-UBND ngày 19/8/2015 của Phòng Giáo dục và
đào tạo thị xã Thuận An về việc điều động, thuyên chuyển cán bộ, công chức,
viên chức;
- Quyết định số 4924/QĐ-UBND ngày 11/9/2015 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thị xã Thuận An về việc tuyển dụng và phân công công tác cho viên chức
ngành Giáo dục và đào tạo năm học 2015-2016;
- Quyết định số 879/QĐ-PGDĐT ngày 16/12/2015 của Phòng Giáo dục
và đào tạo thị xã Thuận An về việc cử người hướng dẫn tập sự;
- Quyết định số 4803/QĐ-UBND ngày 24/8/2016 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thị xã Thuận An về việc giải quyết nghỉ việc;
- Công văn số 269/PGDĐT ngày 09/11/2016 của Phòng Giáo dục và
đào tạo thị xã Thuận An về việc trả lời đơn khiếu nại của nguyên đơn.
- Biên bản đối thoại ngày 27/12/2016.
Quyết định số 190/QĐ-UBND ngày 13/01/2017 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thị xã Thuận An về việc giải quyết khiếu nại;
- 01 USB có bọc nhựa màu đỏ.
* Người đại diện hợp pháp của bị đơn Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thị xã Thuận An trình bày:
Thống nhất với trình
bày của nguyên đơn về việc tuyển dụng, phân công công tác, thời gian hợp đồng
cũng như Quyết định cho nguyên đơn nghỉ việc. Tuy nhiên, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thị xã Thuận An không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện, khởi kiện bổ
sung của nguyên đơn vì quyết định cho nguyên đơn nghỉ việc là theo hồ sơ đơn
xin nghỉ việc của nguyên đơn và đúng theo trình tự, thủ tục quy định.
Tài liệu, chứng cứ bị đơn cung cấp gồm:
- Tờ trình số 222/Tr-PGDĐT ngày 24/8/2015 của Phòng Giáo dục và
đào tạo thị xã Thuận An về việc ra quyết định hợp đồng viên chức trúng tuyển
ngành giáo dục và đào tạo Năm học 2015-2016 (kèm theo danh sách thỏa thuận
trúng tuyển viên chức);- Quyết định số 4924/QĐ-UBND ngày 11/9/2015 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An về việc tuyển dụng và phân công công tác cho
viên chức ngành Giáo dục và đào tạo năm học 2015-2016.
- Hợp đồng làm việc lần đầu ngày 01/9/2015;
- Các đơn xin chuyển lớp vào các ngày: 17/9/2015 của bà Trịnh
Thị Thu Thủy phụ huynh của học sinh Trần Bảo Khang; 24/9/2015 của bà Đỗ Thị
Thanh Nga phụ huynh của học sinh Lê Ngọc Khả Hân; 26/9/2015 của bà Lê Thị Thu
Trang phụ huynh của học sinh Hồ Thảo Nguyên.
- 06 đánh giá tiết dạy ở cấp tiểu học vào các ngày 27/10/2015,
28/10/2015, 30/10/2015, 06/11/2015, 12/11/2015 và 18/11/2015;
Quyết định số 879/QĐ-PGDĐT ngày 16/12/2015 của Phòng Giáo
dục và đào tạo thị xã Thuận An về việc cử người hướng dẫn tập sự.
- Biên bản giải quyết sự việc ngày 12/01/2016 về việc xử lý
trường hợp giáo viên cho học sinh đánh học sinh;
- Bản tự nhận xét đánh giá xếp loại ngày 22/02/2016 của nguyên
đơn;
- Biên bản họp liên tịch xét hết tập sự của nguyên đơn ngày
25/02/2016;
- Bản nhận xét đánh giá kết quả của người hướng dẫn thử việc đối
với nguyên đơn ngày 22/02/2016;
- Tờ trình ngày 26/02/2016 của Trường Tiểu học Trần Quốc Toản về
việc xin gia hạn thời gian tập sự cho nguyên đơn;
- Công văn số 52a/PGDĐT ngày 16/12/2015 của Phòng Giáo dục và
đào tạo thị xã Thuận An về việc gia hạn thời gian tập sự;
- Đơn xin nghỉ việc của nguyên đơn ngày 15/8/2016;
- Trích biên bản họp liên tịch của Trường Tiểu học Trần Quốc
Toản ngày 15/8/2016 về việcxét đơn xin nghỉ việc của nguyên đơn;
- Tờ trình ngày 15/8/2016 của Trường Tiểu học Trần Quốc Toản về
việc giải quyết nghỉ việc của nguyên đơn;
- Tờ trình số 176/Tr-PGDĐT ngày 18/8/2016 của Phòng Giáo dục và
đào tạo thị xã Thuận An về việc giải quyết nghỉ việc (kèm theo danh sách đề
nghị giải quyết nghỉ việc ngày 18/8/2016);
- Quyết định số 4803/QĐ-UBND ngày 24/8/2016 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thị xã Thuận An về việc giải quyết nghỉ việc.3
Tại phiên tòa:
- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và khởi kiện bổ
sung.
- Vị Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu ý kiến:
Về
việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án: Thẩm
phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy
định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử, thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự về xét xử sơ thẩm.
Về
việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến
phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố
tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
Về
việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đại diện
Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
và khởi kiện bổ sung của nguyên đơn.
Những
yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.
NHẬN
ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
1. Về quan hệ tranh chấp, thời hiệu
khởi kiện và thẩm quyền giải quyết:
Nguyên
đơn bà Nguyễn Thị Thu H cho rằng Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An ban
hành Quyết định số 4803/QĐ-UBND ngày 24/8/2016 về việc giải quyết nghỉ việc là
không đúng vì bà H không tự nguyện ký đơn xin nghỉ việc nên bà H khởi kiện, do
đó có cơ sở xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp về chấm dứt
hợp đồng làm việc” theo Khoản 5 Điều 32 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Theo
Khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Lao động năm
2012 thì đơn khởi kiện của bà H còn thời hiệu và vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An theo quy định tại
Điểm c Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
2. Về thủ tục tố tụng:
Ông
Trần Văn H là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn có đơn xin vắng mặt nên
Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Khoản 1 Điều 228 của
Bộ luật Tố tụng Dân sự.
3. Về nội dung:
Nguyên
đơn và bị đơn đều thống nhất về việc tuyển dụng, phân công công tác, thời gian
hợp đồng làm việc nên được xem đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh
theo Điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Theo
bị đơn trình bày thì sau khi nguyên đơn đến nhận công tác, Trường tiểu học Trần
Quốc Toản đã soạn thảo và ký hợp đồng làm việc lần đầu với nguyên đơn, theo
thỏa thuận trong hợp đồng thì thời gian thực hiện hợp đồng là 6 tháng tính từ
ngày 01/9/2015 đến ngày 28/02/2016 với nhiệm vụ của nguyên đơn là Giáo viên
dạy lớp, nhưng do nguyên đơn thường xuyên đi làm không đúng thời gian, vi phạm
nội quy, quy chế của nhà trường, trễ giờ vào lớp nên hợp đồng chưa đưa cho
nguyên đơn ký. Tuy nhiên, bị đơn đã đến nhận nhiệm vụ, làm việc, Trường Tiểu
học Trần Quốc Toản đã chi trả lương, phụ cấp cho nguyên đơn từ nguồn ngân
sách được phân bổ. Điều đó thể hiện mặc dù hợp đồng làm việc chưa được nguyên
đơn ký nhưng thỏa thuận hợp đồng làm việc giữa nguyên đơn và bị đơn đã phát
sinh hiệu lực pháp luật.
Theo
biên bản ghi lời khai cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn thừa nhận
ngày 15/8/2016 chính nguyên đơn là người trực tiếp ký đơn xin nghỉ việc,
tuy nhiên nguyên đơn cho rằng mình không tự nguyện ký mà do Ban giám hiệu
Trường Tiểu học Trần Quốc Toản ép buộc ký vào đơn do nhà trường soạn sẵn với lý
do không hoàn thành tập sự, chứng cứ chứng minh cho điều này 01 USB chứa nội
dung thu âm cuộc nói chuyện giữa nguyên đơn với ông Võ Anh T (Phòng Giáo dục và
đào tạo thị xã Thuận An) vào ngày 27/9/2016 và ông Đặng Thanh B (Hiệu trưởng
Trường Tiểu học Trần Quốc Toản) vào ngày 25/10/2016, nguyên đơn khai rằng mình
đã sử dụng điện thoại di động để thu âm sau đó sao chép nội dung thu âm sang
USB nộp cho Tòa án. Trong quá trình tố tụng tại Tòa án cũng như tại phiên tòa
đã tiến hành mở phát đoạn thu âm trong USB do nguyên đơn cung cấp nhưng không
nghe được rõ ràng, không biết giọng nói trong đoạn thu âm là ai, nội dung gì,
thời gian, địa điểm ghi âm, Tòa án đã giải thích về việc giám định giọng nói
trong đoạn thu âm và yêu cầu bà H giao nộp điện thoại di động mà nguyên đơn đã
sử dụng thu âm hoặc mở phát đoạn thu âm trực tiếp từ điện thoại di động nhưng
nguyên đơn không giao nộp, không mở phát và cũng không yêu cầu giám định giọng
nói trong đoạn thu âm. Như vậy, chứng cứ là đoạn thu âm trong USB mà nguyên đơn
xuất trình không phải là bản gốc và cũng không xuất trình được văn bản trình
bày xuất xứ của USB hoặc văn bản về sự liên quan tới việc thu âm nên không được
coi là chứng cứ theo Khoản 2 Điều 95 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Theo
biên bản xác minh tại Trường Tiểu học Trần Quốc Toản và nội dung đơn xin nghỉ
việc mà nguyên đơn đã trực tiếp ký thì lý do xin nghỉ là: Hoàn cảnh gia đình
khó khăn chứ không phải là lý do không hoàn thành tập sự như lời khai của
nguyên đơn. Nguyên đơn cũng không cung cấp được cụ thể họ tên người ép buộc
mình ký đơn. Do đó, lời trình bày của nguyên đơn về việc bị ép buộc ký đơn là
không có cơ sở chấp nhận.
Sau
khi nhận đơn xin nghỉ việc của nguyên đơn, Trường Tiểu học Trần Quốc Toản đã
làm thủ tục chuyển hồ sơ xin nghỉ việc lên Phòng Giáo dục và đào tạo thị xã
Thuận An, Phòng Giáo dục và đào tạo lập hồ sơ trình lên Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thị xã Thuận An để xem xét theo thẩm quyền. Sau khi xem xét hồ sơ xin thôi
việc của nguyên đơn, ngày 24/8/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Thuận
An đã đồng ý nên ban hành Quyết định số 4803/QĐ-UBND về việc giải quyết cho
nguyên đơn nghỉ việc theo đơn xin là đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo
quy định tại Điều 38 của Nghị
định 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về tuyển
dụng, sử dụng và quản lý viên chức, Quyết định số 49/2014/QĐ-UBND ngày
18/12/2014 Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về việc ban hành quy định phân cấp
tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức và người lao động trong các
đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Từ
những phân tích nêu trên, không có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện,
khởi kiện bổ sung của nguyên đơn.
Ý
kiến của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ.
Nguyên
đơn được quyền liên hệ Bảo hiểm xã hội thị xã Thuận An và Cơ quan có thẩm quyền
để được hưởng chế độ bảo hiểm theo quy định.
Về án
phí lao động sơ thẩm: Nguyên đơn được miễn án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT
ĐỊNH
Căn
cứ vào:
-
Khoản 5 Điều 32, Điểm c Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều93, Khoản
2 Điều 95; Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
-
Khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Lao động năm 2012;
- Các
Điều 25, 26, 28 và 30 của Luật Viên chức năm 2010;
-
Điều 38 của Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về tuyển
dụng, sử dụng và quản lý viên chức;
- Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án năm 2016.
1. Về
yêu cầu khởi kiện, khởi kiện bổ sung của nguyên đơn:
Không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện, khởi kiện bổ sung của nguyên đơn bà Nguyễn
Thị Thu H đối với bị đơn Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Thuận An về việc
“Tranh chấp về chấm dứt hợp đồng làm việc”.
2. Về
án phí lao động sơ thâm: Bà Nguyễn Thị Thu H được miễn nộp tiền ánphí
3. Về
quyền kháng cáo:Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.