TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN YÊN, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 26 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 144/2019/TLST-HNGĐ ngày 10/5/2019 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn pH tòa số 69/2019/QĐST-HNGĐ ngày 19/7/2019 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Đặng Thị H, sinh năm 1994 (có mặt)
* Bị đơn: Anh Hà Anh H, sinh năm 1991 (vắng mặt)
Đều cư trú: Thôn Lam Sơn, xã Lam Cốt, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn xin ly hôn ngày 23/4/2019, bản tự khai và biên bản lấy lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Đặng Thị H trình bày:
Chị và anh H kết hôn năm 2014, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Lam Cốt, huyện Tân Yên. Sau khi kết hôn, chị và anh H về chung sống với nhau. Ban đầu vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Năm 2015 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và anh H chơi bời, không chịu làm ăn, nợ nần nhiều, vợ chồng có cãi nhau. Tháng 10/2015 thì vợ chồng ly thân nhau và không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Năm 2017 chị có nộp đơn đến Tòa án nhưng sau đó rút đơn về để vợ chồng đoàn tụ nhưng không cải thiện được gì. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin ly hôn anh H.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Hà Quỳnh Anh, sinh ngày 20/12/2014. Hiện con chung đang do chị nuôi dưỡng. Ly hôn, chị nhận nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản, ruộng canh tác, công sức đóng góp trong thời gian ở chung: Vợ chồng chị không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên toà, chị H giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn và giải quyết con chung với anh H. Tài sản chung: Chị xác định không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Đối với anh Hà Anh H là bị đơn trong vụ án mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các giấy tờ nhưng tại các buổi hòa giải, làm việc của Tòa án anh H đều vắng mặt không có lý do và Tòa án đã thông báo cho anh H về việc các chứng cứ Tòa án đã thu thập có trong vụ án, quyết định yêu cầu cung cấp bản tự khai và những tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án nếu có yêu cầu nhưng anh H không có ý kiến gì và không cung cấp cho Tòa án các tài liệu chứng cứ để chứng minh cho quyền lợi của mình.
Tại phiên tòa hôm nay anh Hà Anh H vắng mặt.
Toà án cũng đã tiến hành mở phiên hoà giải nhiều lần để hoà giải về quan hệ vợ chồng, con chung, tài sản, công nợ, án phí, nhưng anh H từ bỏ quyền lợi của mình và đều không tiến hành hòa giải được do anh H vắng mặt.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử là đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Nguyên đơn chị H chấp hành đúng các quy định của pháp luật, bị đơn anh H không chấp hành đúng quy định của pháp luật. Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Về nội dung vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân gia đình. Khoản 3 Điều 144; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đề nghị HĐXX, xử:
Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đặng Thị H được ly hôn với anh Hà Anh H.
Về con chung: Tiếp tục giao cho chị H nuôi dưỡng con chung là Hà Quỳnh Anh, sinh ngày 20/12/2014. Vấn đề cấp dưỡng chị H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.
Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Đặng Thị H phải chịu 300.000 đồng và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
* Về thẩm quyền: Vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình giữa chị H và anh H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Tân Yên thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.
* Về tố tụng: Anh Hà Anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh H.
* Đối với yêu cầu xin ly hôn và giải quyết con chung của nguyên đơn chị Đặng Thị H Hội đồng xét xử thấy:
[1]Về quan hệ hôn nhân: Giữa chị H và anh H xác lập quan hệ hôn nhân là tự nguyện, hai bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Lam Cốt, huyện Tân Yên làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng và được coi là hôn nhân hợp pháp. Hội đồng xét xử xét thấy, chị H và anh H có một thời gian ngắn chung sống hạnh phúc thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh H chơi bời, không chịu làm ăn, nợ nhiều, vợ chồng có cãi nhau. Tại biên bản lấy lời khai của chị H, chị xác định hai vợ chồng ly thân nhau từ tháng 10/2015 cho đến nay, không còn quan tâm chăm sóc gì cho nhau. Tòa án tiến hành giao các văn bản tố tụng cho anh H, thông báo hòa giải anh H cũng không đến để Tòa án hòa giải và không có ý kiến gì để bảo vệ quyền lợi cho mình. Tại biên bản làm việc với bà Nguyễn Thị Lý là mẹ đẻ của anh H, bà đã nhận các giấy tờ của Tòa án và đều thông báo lại cho anh H biết, quan điểm của anh H đồng ý ly hôn chị H và để chị H tiếp tục nuôi dưỡng con chung, bà còn cho biết năm 2017, chị H đã có đơn xin ly hôn nộp đến Tòa án sau đó chị H rút đơn để vợ chồng được đoàn tụ nhưng vợ chồng chị H, anh H không cải thiện được gì. Tại phiên tòa hôm nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị được ly hôn với anh H. Xét mâu thuẫn giữa chị H, anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[2] Về con chung: Chị H xác định vợ chồng có 01 con chung là Hà Quỳnh Anh, sinh ngày 20/12/2014. Hiên nay cháu Quỳnh Anh đang ở với chị H. Ly hôn chị nhận tiếp tục nuôi con chung, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Hiện nay chị làm công ty TNHH điện tử TNĐ , thu nhập trung bình khoảng 5.000.000 đồng/ tháng, đủ điều kiện để nuôi con. Như vậy, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu xin nuôi dưỡng con chung của chị H và giao cháu Quỳnh Anh cho chị H tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân gia đình và đảm bảo sự phát triển về mọi mặt của cháu Quỳnh Anh. Sau khi ly hôn, anh Hà Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở anh H thực hiện quyền, nghĩa vụ này.
[3] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
[4] Về tài sản chung, tài sản riêng, nghĩa vụ chung của vợ chồng về tài sản, ruộng canh tác, công sức đóng góp trong thời gian ở chung: Chị H xác định không có, không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại điều 271, khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân gia đình; Điều 28; Điều 35; khoản 3 Điều 144; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đặng Thị H được ly hôn anh Hà Anh H.
2. Về con chung: Giao cho chị Đặng Thị H tiếp tục nuôi dưỡng con chung là Hà Quỳnh Anh, sinh ngày 20/12/2014. Anh Hà Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H.
Sau khi ly hôn, anh Hà Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở anh H thực hiện quyền, nghĩa vụ này.
3. Án phí: Chị Đặng Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp là 300.000 đồng đã nộp tại biên lai thu số AA/2017/0002489 ngày 10/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Yên. Xác nhận chị Đặng Thị H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.