Hotline: 098.203.3335
TRANH TỤNG - TỐ TỤNG HÌNH SỰ - DÂN SỰ - HÀNH CHÍNH - ĐẤT ĐAI - HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
 

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CÔNG TY LUẬT TNHH QUỐC TẾ HỒNG THÁI VÀ ĐỒNG NGHIỆP


Trụ sở chính:
Trụ sở chính: 38LK9, Tổng cục V, Bộ Công an, Tân Triều, Hà Nội

098 203 3335 (24/7)
luathongthai@gmail.com

Bản án 173/2017/HSST ngày 07/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

(Số lần đọc 951)

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NT, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 173/2017/HSST NGÀY 07/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Mở phiên tòa công khai ngày 07/9/2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố NT, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 223/HSST ngày 10/8/2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: BÙI THỊ THU H; Sinh năm: 1993

Nơi ĐKNKTT: Thôn Lam Sơn, xã Ninh Sim, thị xã NH, KH

Chổ ở: 52 Núi Một, Phước Tiến, NT, KH.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không

Trình độ học vấn: 12; Nghề nghiệp: Không

Con ông: Bùi Văn Thành và bà: Nguyễn Thị Thúy Vân.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bắt, tạm giam ngày 12/01/2017. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Văn T

Địa chỉ: Lam Sơn, Ninh Sim, Ninh Hòa, KH. Có mặt.

Người làm chứng:

1. Lê Trọng Luật

Địa chỉ: 53 Lê Thành Phương, NT, KH. Vắng mặt.

2. Nguyễn Đức Nhân

Địa chỉ: Phước Trung, Phước Đồng, NT, KH. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 12/01/2017, Bùi Thị Thu H đang ở nhà thuê tại 52 Núi Một, Phước Tiến, NT thì Nguyễn Đức Nhân gọi điện đến hỏi mua 02 viên thuốc lắc (ma túy tổng hợp) với giá 700.000đ và nói đang đứng đợi trước nhà 53 Lê Thành Phương, NT. H đồng ý và nói Nhân đứng chờ. Khoảng 30 phút sau, H đi đến chỗ hẹn gặp Nhân và đưa cho Nhân 02 viên thuốc lắc có trọng lượng 0,7080g (ký hiệu A), Nhân đưa cho H 700.000đ thì bị Công an tỉnh KH bắt quả tang. Thu giữ trong ví da của Bùi Thị Thu H 21 viên thuốc lắc có tổng trọng lượng 7,353g (ký hiệu B) và 05 bịch nylon hàn kín bên trong có chứa chất bột màu trắng có tổng trọng lượng 1,4355g (ký hiệu C).

Quá trình điều tra đã chứng minh được, H đã 02 lần bán ma túy cho Nguyễn Đức Nhân và một số người nghiện không rõ lai lịch để kiếm lời. Về số ma túy bị thu giữ, H khai nhận đã mua của một người đàn ông tên Phú (không rõ lai lịch) ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại bản kết luận giám định số 77/GĐTP/2017 ngày 17/01/2017 và Công văn số 382/PC54 ngày 04/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh KH kết luận các mẫu A, B gửi giám định đều là ma túy, là (loại) MDMA; mẫu C gửi giám định là ma túy, là (loại) Ketamine. Mẫu A có khối lượng 0,7080g, mẫu B có khối lượng 7,3534g, mẫu C có khối lượng 1,4355g.

Bản cáo trạng số 130/CT-VKS ngày 15/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố NT đã truy tố bị cáo Bùi Thị Thu H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Thị Thu H đã khai nhận: Để có tiền tiêu xài, bị cáo đã mua ma túy của một người tên Phú (không xác định được lai lịch) tại Thành phố Hồ Chí Minh về bán cho các con nghiện, trong đó đã bán nhiều lần cho Nguyễn  Đức  Nhân.  Ngày 12/01/2017, khi bị  cáo  đang  bán  ma  túy cho Nguyễn Đức Nhân thì bị phát hiện, bắt giữ. Số ma túy thu giữ trong người, bị cáo khai tàng trữ nhằm mục đích để bán.

Căn cứ diễn biến của vụ án, tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố NT kiểm sát xét xử tại phiên tòa giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Thị thu H Phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo Bùi Thị Thu H từ 07 năm tù đến 08 năm tù

Hi đồng xét xử nhận thấy: Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh KH; phù hợp lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Bị cáo đã nhiều lần bán ma túy cho Nguyễn Đức Nhân, mà tình tiết “Phạm tội nhiều lần”, mua bán ma túy từ hai lần trở lên là yếu tố định khung hình phạt tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Cáo trạng số 130/CT-VKS ngày 15/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố NT đã truy tố bị cáo Bùi Thị Thu H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự, trị an ở địa phương, xâm phạm sự độc quyền quản lý của Nhà nước. Bị cáo là thanh niên, có sức khỏe không làm ăn lương thiện mà đi vào con đường phạm tội, gây nguy hại đến sức khỏe bản thân và kinh tế gia đình. Do đó, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; tự giác khai báo những lần phạm tội trước đó, chưa có tiền án, tiền sự, nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm o, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Đối với lời khai của Bùi Thị Thu H về người bán ma túy cho bị cáo tên Phú, Tòa án đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra đã xác minh, nhưng chưa xác định được. Hội đồng xét xử đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi xác định được sẽ xử lý ở một vụ án hình sự khác.

Áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự hình phạt bổ sung đối với bị cáo 10.000.000đ sung quỹ Nhà nước.

Về trách nhiện dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt, nhưng không yêu cầu, nên không xét.

Về vật chứng:

* 01 (một) điện thoại Lvmobile màu hồng tím, số thuê bao 01863008678, là phương tiện dùng để liên lạc mua bán ma túy và số tiền 700.000đ thu của Bùi Thị Thu H do bán ma túy mà có, nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Tịch thu, tiêu hủy số ma túy đã thu giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/6/2017 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục Thị hành án dân sự thành phố NT.

* 01 (một) điện thoại Iphone màu vàng, số thuê bao 0904827617 và số tiền 2.000.000đ không liên quan đến vụ án, nhưng xét thấy tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án là cần thiết.

* Chiếc xe máy hiệu ULTIMO màu sơn đen, biển kiểm soát 52S-2691, số máy 4P83 008379, số khung 7Y 008379 được ông Bùi Văn T mua, không có giấy tờ mua bán, nhưng qua xác định chủ sở hữu đã chuyển nhượng. Ông T đưa cho Bùi Thị Thu H sử dụng, nên trả lại cho ông Bùi Văn T là hợp lý.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Bùi Thị Thu H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma y”.

Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự và áp dụng điểm o, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 99, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự đối với bị cáo Bùi Thị Thu H,

Xử phạt: Bị cáo Bùi Thị Thu H 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giam 12/01/2017. Phạt bổ sung bị cáo Bùi Thị Thu H 10.000.000đ  Sung quỹ Nhà nước,

Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt, nhưng không yêu cầu, nên không xét.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự,

Tịch thu sung quỹ Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại Lvmobile màu hồng tím, số thuê bao 01863008678 (theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự thành phố NT ngày 29/6/2017).

- Số tiền 700.000đ (theo Giấy nộp tiền ngân sách Nhà nước số CT 0006698 ngày 29/06/2017 của Kho bạc Nhà nước thành phố NT).

Tịch thu, tiêu hủy số ma túy đã thu giữ, gồm:

- 01 (một) phong bì giấy được niêm phong kín, mặt trước ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định, ký hiệu A 0,5711g”, mặt sau có chữ ký niêm phong của Nguyễn Hoàng Quang Anh, Nguyễn Ngọc Thanh Trúc và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh KH.

- 01 (một) phong bì giấy được niêm phong kín, mặt trước ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định, ký hiệu B 7,0679g”, mặt sau có chữ ký niêm phong của Nguyễn Hoàng Quang Anh, Nguyễn Ngọc Thanh Trúc và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh KH.

- 01 (một) phong bì giấy được niêm phong kín, mặt trước ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định, ký hiệu C 1,2596g”, mặt sau có chữ ký niêm phong của Nguyễn Hoàng Quang Anh, Nguyễn Ngọc Thanh Trúc và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh KH.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự thành phố NT ngày 29/6/2017).

* Tiếp tục tạm giữ 01 (một) điện thoại Iphone màu vàng, số thuê bao 0904827617 (theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự thành phố NT ngày 29/6/2017) và số tiền 2.000.000đ (theo Giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước số CT 0006698 ngày 29/6/2017 của Kho bạc Nhà nước thành phố NT) để đảm bảo thi hành án.

* Trả lại cho ông Bùi Văn T 01 (một) chiếc xe mô tô hiệu ULTIMO màu sơn đen, biển kiểm soát 52S-2691, số máy 4P83 008379, số khung 7Y 008379. (Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự thành phố NT ngày 29/6/2017).

Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết, được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh KH xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Mời bạn đánh giá bài viết này!
Đặt câu hỏi
Báo giá vụ việc
Đặt lịch hẹn

Có thể bạn quan tâm?

Bản án 107/2018/HC-PT ngày 04/07/2018 về khiếu kiện QĐHC, HVHC trong lĩnh vực quản lý đất đai của TANDCC tại Đà Nẵng
Bản án 13/2018/HS-ST ngày 19/04/2018 về tội làm nhục người khác
Bản án 60/2017/HC-ST ngày 21/09/2017 về khiếu kiện công văn trả lời dông dân
Bản án 19/2017/DS-ST ngày 31/07/2017 về tranh chấp hụi
Án lệ số 07/2016/AL về công nhận hợp đồng mua bán nhà trước ngày 01/7/1991
Án lệ số 07/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Án lệ số 06/2016/AL về vụ án “Tranh chấp thừa kế”
Án lệ số 06/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Án lệ số 05/2016/AL về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế”
Án lệ số 05/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Án lệ số 04/2016/AL về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Án lệ số 04/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Án lệ số 03/2016/AL về vụ án “Ly hôn”
Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Án lệ số 02/2016/AL về vụ án “Tranh chấp đòi lại tài sản”
Án lệ số 02/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
 
Tin nhiều người quan tâm
KHÔNG ĐƯỢC GHI ÂM, GHI HÌNH CẢNH SÁT GIAO THÔNG TỪ NGÀY 15/11/2024?
Vừa qua, rất nhiều thông tin đã lan truyền rằng từ 15/11/2024, người dân sẽ không còn được giám sát...
 
Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã được hưởng quyền và nghĩa vụ gì?
Hợp tác xã là gì? Liên hiệp hợp tác xã là gì? Quyền và nghĩa vụ của Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác...
 
Làm thẻ căn cước có phải về quê không ?
Thẻ căn cước công dân là giấy tờ tùy thân của công dân Việt Nam có giá trị chứng minh về căn cước...
 
Tài sản đứng tên một người, có phải là tài sản chung của vợ chồng
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản...
 
Trăn trở của bao cặp vợ chồng: Có nên ly hôn khi không còn tình cảm?
 

Thư viện video

Dành cho đối tác

Giới thiệu

Về chúng tôi

Công ty luật Quốc Tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp – Nơi các luật sư, chuyên gia tư vấn có trình độ cao, có kinh nghiệm nhiều năm trong các lĩnh vực tư vấn đầu tư, thuế – kế toán, sở hữu trí tuệ, tố tụng, lao động, đất đai…đảm nhiệm.

Kinh tế đang phát triển, xã hội có sự phân công lao động rõ ràng. Và chúng tôi hiện diện trong cộng đồng doanh nghiệp để đồng hành, chia sẻ, gánh vác và hỗ trợ các doanh nghiệp.

Chi tiết→

CÁC CHUYÊN VIÊN TƯ VẤN CỦA CHÚNG TÔI

luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn

Tiến Sĩ, Luật Sư Nguyễn Hồng Thái
Tiến sĩ - Luật sư tranh tụng hình sự, dân sự

Luật Sư Trần Anh Minh
Luật sư tranh tụng Dân sự, Hình sự 


Luật Sư Nguyễn Văn Diên
Tư vấn pháp luật đất đai

Luật Sư Nguyễn Thị Tình
Luật sư tranh tụng Dân sự, Hình sự

Thạc Sĩ, Luật Sư Nguyễn Thị Hồng Liên
Tư vấn pháp luật doanh nghiệp

Luật sư Phạm Thị Vân

Luật sư đất đai, doanh nghiệp, lao động


Luật Sư. Lê Ngọc Trung
Luật Sư: Tranh Tụng Doanh Nghiệp

Copyright © 2014-2018 All Rights Reserved - luathongthai.com
Design by and support ThanhNam Software