Hotline: 098.203.3335
TRANH TỤNG - TỐ TỤNG HÌNH SỰ - DÂN SỰ - HÀNH CHÍNH - ĐẤT ĐAI - HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
 

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CÔNG TY LUẬT TNHH QUỐC TẾ HỒNG THÁI VÀ ĐỒNG NGHIỆP


Trụ sở chính:
Trụ sở chính: 38LK9, Tổng cục V, Bộ Công an, Tân Triều, Hà Nội

098 203 3335 (24/7)
luathongthai@gmail.com

Bản án 29/2017/DS-PT ngày 20/12/2017 về yêu cầu tuyên bố giao dịch chuyển quyền sử dụng đất vô hiệu

(Số lần đọc 1136)

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 29/2017/DS-PT NGÀY 20/12/2017 VỀ YÊU CẦU TUYÊN BỐ GIAO DỊCH CHUYỂN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÔ HIỆU

Ngày 20 tháng 12 năm 2017, tại phòng xét xử án dân sự Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, xét xử phuc thẩm công khai vụ án thụ lý số 28/2017/TLPT - DS ngày 11 tháng 10 năm 2017, về tranh châp quy ền sử dụng đất , theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 745/2017/QĐ - PT ngày 07 tháng 11 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đặng Thị H, sinh năm 1944

Địa chỉ: Thôn A, xã L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:

Ông Lê D – Luật sư Văn phòng luật sư Nguyên Tâm thuộc Đoàn luật sư Quảng Bình

Địa chỉ: Số 10, đường Bùi Thị Xuân, phường Đồng Mỹ, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Quốc T, sinh năm 1969 và bà Trần Thị Thu H, sinh năm 1972

Địa chỉ: Số B, đường Nguyễn Văn L, tổ dân phố B, thị trấn H, huyện B, tỉnh Quảng Bình (ông T vắng mặt, bà H có mặt).

Ngươi đai diên theo uy quyên cua bị đơn Trần Quốc T: Ông Vu Xuân H, sinh năm 1972

Đia chi: Tổ dân phố A, phương N , thành phố Đ, tỉnh Quang Binh, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chi cục Thuế thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lương Long Th – Đội trưởng Đội Trước bạ và Thu khác thuộc Chi cục thuế thành phố Đ, có mặt.

+ UBND xã L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình

Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Lê Thị Hồng Ng – Cán bộ địa chính, xây dựng UBND xã L, có mặt.

+ Ông Nguyễn Hữu L, sinh năm 1966 và bà Lê Thị Ph, sinh năm 1971

Địa chỉ: Thôn B, xã Lộc Ninh, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, ông Lộc và bà Phượng, có mặt.

+ Ông Hoàng Đăng Ph, sinh năm: 1945

Địa chỉ: Thôn A, xã L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Ngô Khánh K, sinh năm: 1958

Địa chỉ: Thôn N, xã L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, nguyên Chủ tịch UBND xã L, vắng mặt;

+ Ông Nguyễn Xuân B, sinh năm: 1948

Địa chỉ: Thôn M, xã L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, nguyên cán bộ địa chính xã L, có mặt;

+ Ông Hoàng Công D, sinh năm: 1950

Địa chỉ: Thôn M, xã L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, nguyên chủ nhiệm hợp tác xã Q, xã L, có mặt;

+ Chị Hoàng Thị Thanh H, sinh năm: 1973

Địa chỉ: Thôn N, xã L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt;

+ Ông Võ Minh Th

Địa chỉ: Thôn N, xã L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt;

+ Ông Lê Văn S

Địa chỉ: Thôn M, xã L, thành phố Đ, tỉnh Quang Binh, vắng mặt.

- Người kháng cáo:

Bà Đặng Thị H, sinh năm: 1944;

Địa chỉ: Thôn A, xã L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên toà của các đương sự, thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 1991, vợ chồng bà Đặng Thị H, ông Hoàng Đăng Ph được Ủy ban nhân dân (UBND) thị xã Đ (nay là UBND thành phố Đ) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 1.669m2  (trong đó 200m2  đất ở và 1.469m2  đất vườn), tại thửa đất 117, tờ bản đồ số 4 xã L, mang tên ông Hoàng Đăng Ph. Ngày 06/5/1994, ông Ph viết giấy chuyên nhương cho ông Trần Quốc T ở thị trấn H, huyện B với diện tích 166m2 đất (mặt tiền đường Quốc lộ 1A là 6m, mặt phía sau là 6,3m, chiều sâu là 27m, có tứ cận phía Nam giáp nhà ông Ph, phía Đông giáp nhà ông S, phía Bắc giáp nhà anh Th, phía Tây giáp đường quốc lộ 1A) với số tiền là 36.000.000 đồng, việc bán diện tích đất nói trên do ông Ph thực hiện một mình, bà H không ký vào giấy chuyển nhượng đất. Theo bà H thì sau khi ông Ph bán đất được ba đến bốn năm thì bà biết và phản đối, vợ chồng bà có ý định bàn với vợ chồng ông T để mua lại diện tích đất nói trên, nhưng năm 2001 vợ chồng ông T đã bán lại cho vợ chồng ông L. Năm 2009 thực hiện việc mở rộng Quốc lộ 1A diện tích đất vợ chồng ông L nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông T bị giải tỏa 20,4m2 và đã được Nhà nước đền bù số tiền 31.048.800 đồng, số tiền này vợ chồng ông L đứng ra nhận (hiện nay thửa đất đang tranh chấp còn diện tích 108,5m2, chiều rộng 5,7m, chiều sâu từ trước ra sau 16m). Nay bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyên sư dung đât   giữa ông Ph với ông T và hơp đông giữa v ợ chồng ông T với vợ chồng ông L, yêu cầu huỷ bỏ đơn xin giao đất được UBND xã L xác nhận năm 1994. Công nhận cho bà được sở hữu, sử dụng  1.669m2 đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình bà.

Bị đơn ông Trần Quốc T và bà Trần Thị H trình bày: Ngày 06/5/1994, vợ chồng ông và vợ chồng ông Ph, bà H có lập hợp đồng mua bán 166m2  đất vườn (mặt tiền đường quốc lộ 1A là 6m, chiều sâu là 27m, mặt sau là 6,3m), hai bên có giây tơ viêt t ay đông thơi ông Ph  đa làm đơn tra lai đât co xác nhận c ủa đai diên UBND xã L, vợ chồng ông mang tiên vao giao đu 36.000.000 đồng cho vợ chồng ông Ph, lúc đo co ông Hoang Đăng Ph va ba Đăng Thi H cùng nhân tiên. Cùng ngày, ông Ph mơi can bô hợp tác xã  Q và UBND xã L đến đo đất, lâp hô sơ thưa đât chuyên nhương va xac nhân hơp đông  chuyên nhương , lúc đo co măt vơ chông ông va vơ chông ông Ph, bà H . Tháng 11/1994 ông Ph , bà H bàn với vợ chồng ông đê xây dưng tường rao  thưa đât (trươc đo toa n bô thưa đât cua ông Ph chưa co hang rao  bao quanh) vợ chồng ông nhât tri , song do điêu kiên công tac không thể co măt trưc tiêp nên vợ chồng ông  giao cho vợ chồng ông Ph, bà H gọi thơ xây. Sau khi xây xong, ông Ph, bà H thông báo phân tường rào gia đinh ông xây hêt 500.000 đồng, ông đã trưc tiêp giao số tiền trên cho ba Đăng Thi H . Các năm sau, rât nhiêu lân vợ chồng ông đề nghị làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đât nhưng ông Ph , bà H bảo GCNQSDĐ đang thê châp vay vôn tai   Ngân hang chưa lây vê đươc . Năm 2001 vợ chồng ông đã chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông L, năm 2009 mở rộng quốc lộ 1A diện tích thửa đất bị thu hồi là 20,4m2  và được đền bù 31.048.800 đồng, số tiền này do gia đình ông L nhận.

Vợ chồng ông,bà không chấp nhận việc bà H khởi kiện, vì quá trình mua bán đất giữa gia đình đều có bà H tham gia. Ông, bà đề nghị Tòa án không chấp nhận đơn khởi kiện của bà H.

Vợ chồng ông Nguyễn Hữu L, bà Lê Thị Ph trình bày:

Ngày 01/11/2001 vợ chồng ông Trần Quốc T, bà Trần Thị Thu H có chuyển nhượng cho vợ chồng ông 166m2  đất với giá 40.000.000 đồng. Khi nhận chuyển nhượng vợ chồng ông T và vợ chồng ông có làm giấy giao đất viết tay. Khi đó vợ chồng ông T giao cho ông, bà đơn xin giao đất làm nhà ở gia đình viết ngày 10/5/1994 đã được ông Hoàng Công D là chủ nhiệm Hợp tác xã Q, xã L và ông Nguyễn Xuân B là Trưởng ban quản lý ruộng đất xã L cùng Chủ tịch UBND xã L là ông Ngô Khánh K ký xác nhận và đong dấu . Lúc ông mua lai thửa đât đa đươc xây hang rao tach biêt với các hộ liền kề. Việc vợ chồng ông T, bà H mua thửa đất trên của vợ chồng ông Ph, bà H vào năm 1994 với giá 36.000.000 đồng là theo gia thị trường tại thời điểm đó. Năm 2009 vơ chông ông được đền bù phần đất giải toả làm hành lang đường quốc lộ 1A với số tiền 31.048.800 đồng, trong danh sách nhận tiền tên ông T nhưng vợ chồng ông là người nhận tiền. Năm 2011 vợ chồng ông đến làm thủ tục nộp thuế tai UBND xã L, ông đã nôp tiên truy thu thuế từ năm 1994 cho đến 2011, và thu thuế đất ở vì lý do đất đó có xác nhận của xã L là đất ở.

Nguyên vong cua vơ chông ông là đươc sở hữu, sử dụng diện tích đất trên.

Ông Hoàng Đăng Ph trình bày :

Ông thừa nhận ngày 06 tháng 5 năm 1994 ông có chuyển nhượng 166m2 đất vườn của gia đinh cho ông Trần Quốc T với số tiền 36.000.000 đồng như ông T đã trình bày, giữa ông và ông T có lập giấy viết tay chứ không còn giấy tờ gì khác. Sau  khi  mua  ông  T  không  thực  hiện  các  thủ  tục  làm  giấy  tờ  để  được  cấp GCNQSDĐ nên ông không giao dịch vay vôn tai ngân hang được  . Hiện nay ông đông y vơi y kiên cua ba H   là yêu cầu huỷ giấy  chuyển nhượng đất viết tay giữa ông và ông T lập năm 1994, hủy giây chuyên nhương giữa ông T và ông L , huỷ bỏ đơn xác nhận của xã L. Ông đê nghi đươc tra lai tiên tinh theo gia nha nươc va nhân lai đât cua vơ chông.

Đại diện UBND xã L trình bày: Năm 2014 UBND xã L nhận được hồ sơ xin cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình bà H, ông Ph. UBND xa L đa phôi hơp vơi Văn phong đăng ky quyên sư dung đât thanh phô    Đ tiên hanh kiêm tra thưc đia đôi vơi hô sơ x in câp đôi. Qua kiêm tra phat hiên mô t phân thưa đât cua ông Ph , bà H đa chuyên n hương cho ông Trân Quôc T va ba Trân Thi Thu H từ năm 1994 và sau đó ông T , bà H chuyên nhương lai cho ông Nguyên Hưu L , bà Lê Thị Ph ở thôn B, xã L. Quá trình giải quyết hồ sơ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thấy thửa đất bị cấp chồng nhau nên đê nghi UBND xa phôi hơp vơi Văn phong đăng ky quyên sư dung đât tiên hanh lam vi  ệc với hộ gia đình ông Ph và hộ gia đình ôn g L để giải quyết, đề nghị hai hộ gia đinh phôi hơp để việc  câp đôi Giây chưng nhân quyên sư dung đât.

Việc UBND xã L xác nhận trên đơn xin cấp đất của ông T, bà H chông lên phân đất đa co giây chưng nhân quyên sư dung đât cua ông Hoang Đăng Ph và bà Đặng Thị H là có cơ sở . Vì năm 1994 ông Ph đa co đơn xin tra đât nên UBND xa mơi xac nhân vao đơn . Đề nghị Toà án căn cứ theo quy định của pháp luật để giải quyết.

Tại Công văn số 504/CCT- KK ngày 24/3/2016 và Công văn số 390/CCT- KK ngày 16/3/2017 của Chi cục thuế Đ trình bày: Trước năm 2012, việc thực hiện quản lý và thu thuế đất được thực hiện theo Pháp lệnh thuế nhà, đất năm 1991; Pháp lệnh thuế nhà, đất năm 1994. Theo đó hộ gia đình, cá nhân thực hiện kê khai nộp thuế đất theo mẫu, gửi hai tờ khai đến chính quyền địa phương xác nhận, sau đó gửi hai tờ khai đến cơ quan thuế để kiểm tra, tính thuế và phê duyệt mức thuế vào tờ khai, một bản tờ khai được gửi cho người kê khai nộp thuế và coi là thông báo lần 1, một bản lưu tại cơ quan thuế làm căn cứ lập sở thuế để theo dỏi thu hàng năm. Từ năm 2012, việc thu thuế đất ở được thực hiện theo quy định tại Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010 (có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2012). Ngày 17/3/2012, ông Hoàng Đăng Ph đã lập tờ khai thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đối với thửa đất số 117, tờ bản đồ số 4, được UBND xã L xác nhận. Việc ông Trần Quốc T kê khai , nộp thuế đất đối với diên tich 166m2  đất đang tranh chấp, cụ thể: Ngày 15/11/2007 bà Bùi Thị M là ủy nhiệm thu thuế của xã L có viết biên lai thu thuế đất ở số 0015561 (mẫu CTT 90A;ký hiệu AA/2007) số tiền 5.022.700 đồng thu số tiền thuế đất ở từ năm 1994 đến năm 2007 mà người nộp tiền là chị Trần Thị T có ghi chú là “nộp tiền hồ sơ Trần Quốc T”. Đối với việc kê khai, nộp thuế đất ở của ông Nguyễn Hữu L đối với 166m2  đất nói trên: Năm 2010, ông L có kê khai thuế đất đối với thửa đất trên và thực hiện nộp tiền thuế đất ở từ năm 2008 đến năm 2011 thể hiện trên các biên lai cụ thể. Năm 2011, Chi cục thuế mới lập số thuế đất ở đối với ông Nguyễn Hữu L (năm 2010 thu phát sinh có truy thu đến năm 2009). Năm 2012, thực hiện theo Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, ông Nguyễn Hữu L đã thực hiện kê khai, được UBND xã L xác nhận và Chi cục thuế Đ lập hô sơ thuế sử dụng  đất phi nông nghiệp và thực hiện thu từ năm 2012 đến nay.

Ngoài ra, Chi cục thuế còn có ý kiến theo Thông tư số 83-TC/TCT ngày 07/10/1994 của Bộ Tài chính thì việc nộp thuế nhà, đất của ông T và ông L không phải là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất ở đối với các bên có liên quan khi có tranh chấp, đây chỉ là cơ sở để xác định bắt đầu sử dụng đất ổn định theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 “thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định căn cứ vào thời gian và nội dung có liên quan đến mục đích sử dụng đất ghi trên một trong các giấy tờ sau đây: Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất”. Việc hoàn trả tiền thuế cho người nộp thuế được thực hiện theo quy định từ Điều 59 đến Điều 60 Luật quản lý thuế năm 2012. Trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận việc kê khai diện tích đất nông nghiệp là không đúng với thực tế mục đích sử dụng đất là đất ở (đất chưa được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất ở và thực tế không sử dụng vào mục đích đất ở) thì Chi cục thuế sẽ xem xét hoàn trả tiền thuế đã nộp.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2016/DSST ngay 16/6/2016 của Tòa án nhân dân thanh phô Đông Hơi quyêt đinh:

Tuyên bô “Giây chuyên nhương đât m àu” giưa ông Hoang Đăng Ph vơi ông Trân Quôc T ký kết ngà y 06/5/1994; “Giây giao nhân đât” đươc viêt tay giưa  vơ chông ông Trân Quôc T Va ba Trân Thi Thu H  với vợ chồng Nguyễn Hữu L và bà Lê Thi Ph đươc ky kêt ngay  01/11/2001 vô hiêu. Hủy bỏ “Đơn xin giao đất xây dưng nha ở” của ông Trần Quốc T đề ngày 10/5/1994 đươc UBND xa L xác nhận ngày 01/7/1994.

Công nhân diên tich  108,5m2 đât mau cua ông Hoang Đăng  Ph đa chuyên nhương cho ông Trân Quôc T là quyền sử dụng đất của ông Ho àng Đăng Ph và bà Đặng Thị H. Buôc vơ chông ông Ph , bà H phải trả cho ông T sô tiên 319.226.000 đồng. Trả lại số tiền thuế cho vơ chông ông Nguyên Hưu L va ba Lê Thi Ph đa nôp tại Chi cục thuê thanh phố Đ vơi sô tiên 5.022.700 đồng.

Ngoài ra Bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí và quyên khang cao cho cac đương sư.

Ngày 20/6/2016 ông Nguyên Hưu L có đơn kháng cáo với nội dung : Bản án sơ thâm xet xư không khach qu an, không đung phap luât anh hương đên quyên lơi của gia đình ông, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ vụ án.

Ngày 21/6/2016 bà Đặng Thị H kháng cáo về căn cứ tính giá bồi thường là không đung. Đồng thời, sau khi xác định lỗi xong lại buôc ba phai cung ông Ph trả tiên la buôc sai đôi tương   . Yêu câu Toa an câp phuc thâm tuyên bô hơp đông chuyên nhương quyên sư dung  đât giưa ông Hoang Đăng Ph  và ông Trần Quốc T là vô hiệu buộc cá c bên khôi phuc lai tinh trang ban đâu , hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 18/2016/DS - PT ngay 15/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình quyết định: Hủy bản án số 06/2016/DSST ngay 16/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới và chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân thanh phô Đông Hơi giai quyêt lai vu an theo trinh tư sơ thâm vơi nhân đinh: Câp sơ thâm chưa xac minh đươc tranh châp xay ra tư luc nao, các bên đa khiêu nai va khiêu nai đên đâu, chưa lam ro đươc viêc thu hôi đât năm 2010 bà H có biết không và ai là người nhận tiền thu hồi đất của ông Ph, chưa thu thâp đây đu chưng cư hô sơ thu hôi đât . Không đưa Chi cuc thuê  vào với tư cách là người có quyên lơi va nghia vu liên quan. Câp sơ thâm căn cư gia tri cua cac bên đưa ra đê công lai va lây trung binh đê tinh gia tri thưa đât la không co căn cư , vi pham khoản 2, Điêu 2 Thông tư 02/2014/TTLT-TAND-VKND-BTP-BTC ngay 28/3/2014. Do câp sơ thâm vi pham thu tuc tô tung nghiêm trong  , câp phuc thâm không thê bô sung đươc, đo đo huy toan bô ban an sơ thâm.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2017/DS - ST ngày 29 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã quyết định:  Căn cứ  điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; khoản 2 Điều 184 BLTTDS 2015; các Điều 13, 15, 56  Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991; Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986; Điều 15, Điều 129, Điều 132 BLDS năm 2015; khoản 2 Điều 31 Luật đất đai năm 1993; Áp dụng Án lệ số 04/2016/Al năm 2016.

1. Không chấp nhận yêu cầu của bà Đặng Thị H về yêu cầu hủy “Giấy chuyển nhượng đất màu”

Công nhận giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất được thể hiện dưới hình thức “Giấy chuyển nhượng đất màu” được viết tay giữa bên chuyển nhượng ông Hoàng Đăng Ph và bên nhận chuyển nhượng ông Trần Quốc T, được ký kết vào ngày 06/5/1994 là hợp pháp, có hiệu lực thi hành đối với các bên.

Các bên có trách nhiệm đến cơ quan có thẩm quyền làm các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

2.  Không chấp nhận yêu cầu hủy bỏ “Giấy giao nhận đất” được viết tay giữa bên chuyển nhượng vợ chồng ông Trần Quốc T, bà Trần Thị Thu H với bên nhận chuyển nhượng vợ chồng ông Nguyễn Hữu L bà Lê Thị Ph, được ký kết ngày 01/11/2001.

3. Không chấp nhận yêu cầu tuyên bố huỷ bỏ “Đơn xin giao đất xây dựng nhà ở gia đình” của ông Trần Quốc T đề ngày 10/5/1994, được UBND xã L xác nhận ngày 01/7/1994 vì không là đối tượng giải quyết.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên buộc nguyên đơn chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Ngày 30 tháng 8 năm 2017 bà Đặng Thị H kháng cáo với nội dung: Kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án để đảm bảo quyền lợi của bà.  Ngày 20/9/2017 bà H có đơn kháng cáo bổ sung cho rằng cấp sơ thẩm không đưa hai con của bà là Hoàng Thị Thu H và Hoàng Đăng Ph vào tham gia tố tụng đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các con bà; Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 132 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để áp dụng thời hiệu khởi kiện và áp dụng án lệ số 04 để xét xử là không đúng nên bà yêu cầu hủy án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm bà Đặng Thị H vẫn giữ nguyên đơn khởi kiện và đơn khang cao. Các bên đương sự không thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án.

Ông Lê D – Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Đặng Thị H cho rằng: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hoàng Đăng Ph và ông Trần Quốc T lập vào năm 1994 đã vi phạm về hình thức và nội dung theo quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn để sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn. Nếu Tòa án không chấp nhận thì hủy án sơ thẩm vì cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng do không đưa hai con của vợ chồng ông Ph, bà H vào tham gia tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.

Ông Vũ Xuân H người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Trần Quốc T trình bày: Giao dịch mua bán đất giữa ông Ph và ông T vào ngày 06/5/1994 đã thực hiện xong, vợ chồng ông Ph đã nhận đủ tiền và giao đất cho vợ chồng ông T, vợ chồng ông T được UBND xã L cắm móc, trích thửa bản đồ xác nhận vào đơn xin đất làm nhà ở trình cấp có thẩm quyền xem xét, căn cứ Nghị quyết của Quốc Hội ngày 18/10/1995 về việc thi hành Bộ luật dân sự năm 1995; thông tư liên tịch số 03/1996/TTLT ngày 10/8/1996 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Pháp lện hợp đồng dân sự năm 1991 thì thời hiệu khởi kiện vụ án của bà H đã hết, ông đề nghị Tòa án xem xét đình chỉ vụ án.

Bà Trần Thị Thu H giữ nguyên quan điểm đã trình bày ở cấp sơ thẩm và đề nghị cấp phúc thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm các đương sự và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đê nghi Hôi đông xet xư không châp nhân khang cao cua nguyên đơn va giư nguyên ban an sơ thâm.

Sau khi xem xét nội dung kháng cáo, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; kết quả tranh luận, ý kiến của kiểm sát viên; nguyên đơn, bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]  Ngày 29 tháng 8 năm 2017 Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới xét xử sơ thẩm vụ án, ngày 30 tháng 8 năm 2017 bà Đặng Thị H làm đơn kháng cáo, đơn của bà H làm đúng quy định tại Điều 272 của Bộ luật tố tụng dân sự, trong hạn luật định và đã nộp tiền tạm ứng án phí nên chấp nhận để xét xử phúc thẩm.

[2] Ngày 09 tháng 9 năm 1991 ông Hoàng Đăng Ph được UBND thị xã Đ (nay là UBND thành phố Đ) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) số G 627288  với diện tích tích 1.669m2  (trong đó 200m2  đất ở và 1.469m2  đất vườn), tại thửa 117, tờ bản đồ số 4, xã Lộc Ninh. Ngày 06 tháng 5 năm 1994, ông Hoàng Đăng Ph viết giấy chuyển nhượng cho ông Trần Quốc T 166m2 đất vườn với giá 36.000.000 đồng, hai bên đã giao nhận đầy đủ số tiền trên. Để hợp thức hóa việc chuyển nhượng đất, ngày 10/5/1994 ông Hoàng Đăng Ph làm đơn trả đất màu đã chuyển nhượng cho ông T (BL 116), căn cứ giấy trả đất của ông Ph, UBND xã L đã tiến hành cắm móc tách thửa đất và xác nhận vào đơn xin đất làm nhà ở của ông Trần Quốc T trên diện tích ông Hoàng Đăng Ph đã trả.

[3] Cuối năm 1994 giữa vợ chồng ông T và vợ chồng ông Ph thống nhất xây tường rào ngăn cách giữa hai thửa đất đã chuyển nhượng, việc mua vật liệu và thuê thợ xây do gia đình ông Ph thực hiện, vợ chồng ông T trả 500.000 đồng tiền công và tiền vật liệu xây dựng liên quan đến diện tích đã xây trên thửa đất đã nhận chuyển nhượng của ông Ph, từ đó cho đến nay tường rào ngăn cách giữa hai thửa đất vẫn còn giữ nguyên.

[4] Vợ chồng ông T đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông Ph đến cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo đúng quy định, tuy nhiên vợ chồng ông Ph cho rằng GCNQSDĐ đang thế chấp cho Ngân hàng để vay vốn nên chưa thực hiện được.

[5] Năm 2001 vợ chồng ông T viết giấy chuyển nhượng lại toàn bộ diện tích đất đã nhận chuyển nhượng từ ông Hoàng Đăng Ph cho vợ chồng ông Nguyễn Hữu L. Năm 2009 thực hiện dự án mở rộng Quốc lộ 1A diện tích đất nói trên bị thu hồi 20,4m2  và được đền bù 31.048.800 đồng, số tiền này gia đình ông L trực tiếp nhận.

[6] Viêc bà Đặng Thị H yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Hoàng Đăng Ph với ông Trần Quốc T và hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng ông T, bà H với ông Nguyễn Hữu L, bà Lê Thị Ph vô hiệu là không có căn cứ, bởi lẽ: Việc ông Ph chuyển nhượng 166m2  đất vườn với giá 36.000.000 đồng cho ông T vào ngày 06/5/1994 bà H biết và nhất trí với việc chuyển nhượng trên, bên cạnh đó lúc cán bộ địa chính xã L đến gặp bà H, ông Ph để đo, tách thửa đất có mặt bà H nhưng bà không có ý kiến gì. Mặt khác cuối năm 1994 bà H, ông Ph trực tiếp thuê thợ và mua vật liệu để xây dựng tường rào ngăn cách thửa đất đã chuyển nhượng cho ông T, bà H cũng không có ý kiến gì, năm 2010 vợ chồng ông L nhận 31.048.800 đồng tiền đền bù thu hồi đất bà H cũng không tranh chấp, điều đó thể hiện bà H biết và nhất trí việc ông Ph chuyển nhượng đất cho ông T.

[7] Tại phiên tòa bà H trình bày tại thời điểm ông Ph chồng bà chuyển nhượng thửa đất cho ông T bà không biết nhưng khoảng 3 đến 4 năm sau bà biết việc chuyển nhượng đất nói trên nên vợ chồng bà đã trao đổi với nhau để mua lại thửa đất, đến tháng 7 năm 2015 bà khởi kiện yêu cầu hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Ph và ông T là không có cơ sở, bởi vì: Theo quy định tại Điều 427 Bộ luật dân sự năm 2005 thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm; tại điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Giao dịch dân sự được thực hiện xong trước ngày Bộ luật này có hiệu lực mà có tranh chấp thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 để giải quyết. Như vậy, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của bà H không còn để giải quyết.

[8] Đối với hợp đồng chuyển nhượng 166m2 đất vườn giữa ông Hoàng Đăng Ph và ông Trần Quốc T lập ngày 06/5/1994, thấy: Hợp đồng chuyển nhượng đất màu giữa hai bên không thực hiện đúng quy định của Luật đất đai năm 1993, bà H là đồng sở hữu thửa đất không ký vào giấy chuyển nhượng, tuy nhiên diện tích đất nói trên đã được ông Ph làm đơn trả lại cho Hợp tác xã Q và UBND xã L, bên nhận chuyển nhượng và bên chuyển nhượng đã giao nhận đầy đủ số tiền theo hợp đồng, quá trình sử dụng diện tích đất nói trên ông T được UBND xã L và cơ quan quản lý đất thị xã Đ cắm móc, tách thửa và xác nhận vào đơn xin cấp đất làm nhà ở, việc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đã hơn 20 năm các bên không có tranh chấp, theo mục 2.3 Điều 2 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập sau ngày 15/10/1993 thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện theo quy định nhưng bên chuyển nhượng không phản đối và không bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện và Tòa án công nhận hợp đồng. Mặt khác, tại Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân thủ theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch..; Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức, nhưng trừ trường hợp:  Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó; Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Từ các quy định trên cho thấy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Ph và ông T lập ngày 06/5/1994 không bị vô hiệu.

[9] Đối với hợp đồng chuyên nhương ngày 01/11/2001giữa vợ chồng ông Trân Quôc T , bà Trần Thị Thu H   vơi ông  Nguyên Hưu L , bà Lê Thị Ph , thấy: Diện tích thửa đất hai bên ký kết hợp đồng chuyển nhượng chưa được cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hợp đồng không có chứng thực của chính quyền địa phương hoặc cơ quan công chứng là không đúng quy định, tuy nhiên từ lúc nhận chuyển nhượng cho đến lúc nguyên đơn khởi kiện (15 năm) vợ chồng ông L sử dụng ổn định và đã trực tiếp nộp thuế sử dụng đất, theo quy định tại điêm a , h khoan 2 Điêu 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngay 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai thi hô ông Nguyên Hưu L đươc xac đinh đã sư dung đât ổ n đinh. Mặt khác, diện tích đất ông Ph chuyển nhượng cho ông T là đất màu có thời hạn sử dụng đến năm 1997, sau khi ông Ph trả đất vào năm 1994 thì UBND xa L đa tiến hành cắm mốc, giao đât thưc đia cho ông T. Tại Công văn số 393/STNMT-TTr ngày 10/3/2017 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình trả lời về phần diên tich đất ông Ph chuyển nhượng cho ông T thì năm 1997 thực hiện đo đac , kiểm tra đia chinh, thưa đât cua ông Ph được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đât từ năm 1991 đã đươc tách thành hai thửa gồm: Thưa sô 40 vơi diên tich la 1354m2 do ông Ph đăng ky sư dụng, thưa sô 35 vơi diên tich  166m2  do ông T đăng ky sư dung  (tờ ban đô đia chính sô 36 xã L được duyêt năm 1999), sau khi nhận chuyên nhương thửa đất từ vợ chồng ông T, vợ chồng ông Nguyên Hưu L đã đăng ký sử dụng thửa đất và nay được đổi thành thửa số 250, tờ bản đồ số 35, bản đồ địa chính xã L mang tên chủ sử dụng đất Nguyễn Hữu L. Hiện nay giữa vợ chồng ông T, bà H với vợ chồng ông L, bà Ph không có tranh chấp, hai bên đều mong muốn thực hiện hợp đồng nên chấp nhận để các bên thực hiện hợp đồng theo quy đinh cua phap luât.

[10] Việc bà Đặng Thị H yêu câu huy bo “Đơn xin giao đât” c ủa ông Trần Quôc T đã được UBND xa L xác nhận năm 1994, thấy: Tại khoản 2 Điêu 31 Luât đât đai năm 1993 quy đinh “Thu tuc chuyên nhương quyên sư du ng đât lam tai Uy ban nhân dân huyên , quân, thị xã, thành phố thuộc tỉnh”. Vì vậy, việc UBND xa L xác nhận vào đơn xin giao đất  làm nhà ở của ông T từ năm 1994 là thủ tục hành chính của cấp xã để trình lên cấp trên xem xét theo thẩm quyền, đây không phai la quyêt đinh ca biêt trai phap luât cua cơ quan   , tô chưc , ngươi co thâm quyên nên không phai la đôi tương đê  Tòa án xem xét hủy . Do đo  yêu câu  của bà H không được chấp nhận.

[11] Đối với kháng cáo bổ sung đề ngày 20/9/2017 của bà Đặng Thị H và trình bày tại phiên tòa của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà H về việc cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng do không đưa hai người con của bà H là Hoàng Thị Thu H, sinh năm 1973 và Hoàng Đăng Ph, sinh năm 1975 vào tham gia tố tụng đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các con của bà H, Hội đồng xét xử thấy: Diện tích đất ông Ph chuyển nhượng cho ông T là đất màu có thời hạn sử dụng đến năm 1997 và ông Ph đã làm đơn trả lại đất cho Hợp tác xã Q và UBND xã L từ ngày 10 tháng 5 năm 1994(BL 116), diện tích đất nói trên nhà nước cấp cho vợ chồng ông Ph không thu tiền và không phải cấp cho hộ gia đình, đây không phải đất mua từ việc đấu giá hay nhận chuyển nhượng của người khác, quá trình giải quyết vụ án hai con của bà H không yêu cầu và cũng chứng minh công sức đóng góp của mình vào diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông T. Mặt khác, đơn kháng cáo bổ sung của bà H làm ngày 20/9/2017đã hết thời hạn kháng cáo và nội dung kháng cáo này đã vượt quá nội dung kháng cáo ngày 30/8/2017, tại phiên tòa bà H không trình xuất trình được lý do kháng cáo quá hạn, căn cứ khoản 2 Điều 284 Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận nội dung kháng cáo này.

[12] Đối với nội dung bà H yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng 1.669m2  đất, thấy:  Ngày 09/9/1991 UBND thị xã Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G 627288 cho ông Hoàng Đăng Ph với diện tích 1.669m2 đất (200 m2  đất ở và 1.469 m2  đất vườn sử dụng đến tháng 1/1997) tại thửa số 117 tờ bản đồ số 4 xã Lộc Ninh, thành phố Đồng Hới, ngày 06/5/1994 ông Ph đã chuyển nhượng cho ông T 166m2 đất vườn và quá trình sử dụng diện tích đất nói trên vợ chồng ông Ph đã bị Nhà nước thu hồi, đền bù 110,4 m2  để mở rộng quốc lộ 1A (BL 111) nên diện tích đất vợ chồng ông Ph đang sử dụng không còn đủ 1.669m2 như bà H yêu cầu, vì vậy yêu cầu của bà H không có căn cứ để chấp nhận.

[13] Trong vụ án này bà Đặng Thị H biết rõ ông Hoàng Đăng Ph chuyển nhượng 166m2 đất vườn cho ông Trần Quốc T vào ngày 06/5/1994 và nhận đủ tiền theo hợp đồng chuyển nhượng, việc chuyển nhượng đã hơn 20 năm bà H không có ý kiến phản đối, điều đó tương tự Án lệ số 04/2016/AL về Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lựa chọn từ Quyết định giám đốc thẩm số 04/2010/QĐ-HĐTP  ngày  03/3/2010  đã  được  công  bố  theo  Quyết  định  số 220/QĐ - CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, vì vậy cân ap dung tương tư an lê trên để xét xử vụ án.

[14] Từ nhưng nhân đinh  trên, Hôi đông xet xư phuc thâm thây không co căn cư đê c hâp nhân khang cao cua bà Đặng Thị H đối với bản án sơ thẩm số 10/2017/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

[15] Kháng cáo của nguyên đơn không được cấp phúc thẩm chấp nhận nên nguyên đơn phai chiu 300.000 đông an phi dân sư phuc thâm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cư Điều 272, khoản 2 Điều 284 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 134, Điều 427 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 129, điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự 2015; khoản 2 Điều 31 Luật đất đai năm 1993; Áp dụng Án lệ số 04/2016/Al  năm 2016; khoản 3 Điêu 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án năm 2009; khoản 1 Điêu 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miên, giảm, thu, nôp, quản lý, sư dung an phi va lê phi Toa an. Xử:

1. Không châp nhân khang cáo của bà Đặng Thị H  đối với Bản án sơ thẩm sô 10/2017/DS - ST ngày 29 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

2. Không chấp nhận yêu cầu của bà Đặng Thị H về:

- Hủy “Giấy chuyển nhượng đất màu” được ký kết vào ngày 06/5/1994 giữa ông Hoàng Đăng Ph và ông Trần Quốc T;

- Hủy bỏ “Giấy giao nhận đất” giữa vợ chồng ông Trần Quốc T, bà Trần Thị Thu H và vợ chồng ông Nguyễn Hữu L, bà Lê Thị Ph, được ký kết ngà 01/11/2001;

- Huỷ bỏ “Đơn xin giao đất xây dựng nhà ở gia đình” của ông Trần Quốc T đề ngày 10/5/1994, được UBND xã L xác nhận ngày 01/7/1994;

- Công nhận quyền sử dụng 1.669m2 đất thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông Hoàng Đăng Ph, bà Đặng Thị H.

3. Về án phí: Buộc bà Đặng Thị H phải chịu 200.000 đồng  án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được trừ 500.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà Huế đã nộp tại biên lai số 0001167 ngày 14/7/2015 và biên lai số 0000184 ngày 07/9/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Mời bạn đánh giá bài viết này!
Đặt câu hỏi
Báo giá vụ việc
Đặt lịch hẹn

Có thể bạn quan tâm?

Bản án 107/2018/HC-PT ngày 04/07/2018 về khiếu kiện QĐHC, HVHC trong lĩnh vực quản lý đất đai của TANDCC tại Đà Nẵng
Bản án 13/2018/HS-ST ngày 19/04/2018 về tội làm nhục người khác
Bản án 60/2017/HC-ST ngày 21/09/2017 về khiếu kiện công văn trả lời dông dân
Bản án 19/2017/DS-ST ngày 31/07/2017 về tranh chấp hụi
Án lệ số 07/2016/AL về công nhận hợp đồng mua bán nhà trước ngày 01/7/1991
Án lệ số 07/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Án lệ số 06/2016/AL về vụ án “Tranh chấp thừa kế”
Án lệ số 06/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Án lệ số 05/2016/AL về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế”
Án lệ số 05/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Án lệ số 04/2016/AL về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Án lệ số 04/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Án lệ số 03/2016/AL về vụ án “Ly hôn”
Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Án lệ số 02/2016/AL về vụ án “Tranh chấp đòi lại tài sản”
Án lệ số 02/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
 
Tin nhiều người quan tâm
KHÔNG ĐƯỢC GHI ÂM, GHI HÌNH CẢNH SÁT GIAO THÔNG TỪ NGÀY 15/11/2024?
Vừa qua, rất nhiều thông tin đã lan truyền rằng từ 15/11/2024, người dân sẽ không còn được giám sát...
 
Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã được hưởng quyền và nghĩa vụ gì?
Hợp tác xã là gì? Liên hiệp hợp tác xã là gì? Quyền và nghĩa vụ của Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác...
 
Làm thẻ căn cước có phải về quê không ?
Thẻ căn cước công dân là giấy tờ tùy thân của công dân Việt Nam có giá trị chứng minh về căn cước...
 
Tài sản đứng tên một người, có phải là tài sản chung của vợ chồng
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản...
 
Trăn trở của bao cặp vợ chồng: Có nên ly hôn khi không còn tình cảm?
 

Thư viện video

Dành cho đối tác

Giới thiệu

Về chúng tôi

Công ty luật Quốc Tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp – Nơi các luật sư, chuyên gia tư vấn có trình độ cao, có kinh nghiệm nhiều năm trong các lĩnh vực tư vấn đầu tư, thuế – kế toán, sở hữu trí tuệ, tố tụng, lao động, đất đai…đảm nhiệm.

Kinh tế đang phát triển, xã hội có sự phân công lao động rõ ràng. Và chúng tôi hiện diện trong cộng đồng doanh nghiệp để đồng hành, chia sẻ, gánh vác và hỗ trợ các doanh nghiệp.

Chi tiết→

CÁC CHUYÊN VIÊN TƯ VẤN CỦA CHÚNG TÔI

luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn

Tiến Sĩ, Luật Sư Nguyễn Hồng Thái
Tiến sĩ - Luật sư tranh tụng hình sự, dân sự

Luật Sư Trần Anh Minh
Luật sư tranh tụng Dân sự, Hình sự 


Luật Sư Nguyễn Văn Diên
Tư vấn pháp luật đất đai

Luật Sư Nguyễn Thị Tình
Luật sư tranh tụng Dân sự, Hình sự

Thạc Sĩ, Luật Sư Nguyễn Thị Hồng Liên
Tư vấn pháp luật doanh nghiệp

Luật sư Phạm Thị Vân

Luật sư đất đai, doanh nghiệp, lao động


Luật Sư. Lê Ngọc Trung
Luật Sư: Tranh Tụng Doanh Nghiệp

Copyright © 2014-2018 All Rights Reserved - luathongthai.com
Design by and support ThanhNam Software