Bảo hộ quyền của người biểu diễn là lĩnh vực quan trọng cần phải được bảo vệ theo luật pháp để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của họ. Hãy cùng Luật Hồng Thái tìm hiểu trong bài viết sau đây.
1.
Nội dung quyền của người biểu diễn:
Cũng giống như tác giả sáng tác ra tác phẩm, người biểu
diễn tác phẩm đó có quyền nhân thân và có thể có hoặc không quyền tài sản. Việc
bảo hộ quyền của người biểu diễn được quy định rất rõ trong pháp luật sở hữu
trí tuệ mà trước tiên là tại Điều 29 Luật SHTT.
Nếu người biểu diễn tự mình đầu tư tài chính và cơ sở
vật chất kỹ thuật để thực hiện cuộc biểu diễn thì họ chính là người biểu diễn đồng
thời là chủ đầu tư. Người biểu diễn đồng thời là chủ đầu tư thì có các quyền
nhân thân và các quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn. Còn nếu do nguời khác đầu
tư kinh phí, hỗ trợ cơ sở vật chất kỹ thuật bằng khả năng tài chính của họ thì
chủ đầu tư chính là cá nhân, tổ chức đó. Khi người biểu diễn không đồng thời là
chủ đầu tư thì người biểu diễn có các quyền nhân thân và chủ đầu tư có các quyền
tài sản đối với cuộc biểu diễn.
Bên cạnh đó, theo Khoản 2 Điều 29 Luật SHTT thì quyền
nhân thân bao gồm: quyền được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản
ghi âm, ghi hình, phát sóng cuộc biểu diễn; và quyền được bảo vệ sự toàn vẹn
hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới
bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.
Còn tại Khoản 3 Điều 29 Luật SHTT quyền tài sản bao gồm độc quyền thực hiện hoặc
cho phép người khác thực hiện các quyền sau: Định hình cuộc biểu diễn trực
tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình; Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp
cuộc biểu diễn của mình đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình; Phát
sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của mình chưa được
định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp cuộc biểu diễn đó
nhằm mục đích phát sóng; Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc
biểu diễn của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ
phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
Người biểu diễn không được chuyển nhượng các quyền
nhân thân và tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng các quyền nêu trên phải
trả tiền thù lao cho người biểu diễn theo quy định của pháp luật hoặc theo thoả
thuận trong trường hợp pháp luật không quy định. Điều này được quy định tại Khoản
4 Điều 29 Luật SHTT nếu “tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng các quyền
nhân thân và quyền tài sản phải trả tiền thù lao cho người biểu diễn theo quy định
của pháp luật hoặc theo thỏa thuận trong trường hợp pháp luật không quy định”.
Ví dụ: A là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả ca
khúc “Mẹ tôi”. Ông B tổ chức buổi biểu diễn có thu vé vào cửa, thuê ca sĩ C hát
ca khúc của ông A. Ở đây C chính là người biểu diễn không đồng thời là chủ đầu
tư nên C có các quyền nhân thân và chủ đầu tư B có các quyền tài sản đối với cuộc
biểu diễn. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 Luật SHTT thì C được hưởng các quyền
nhân thân, quyền nhân thân này quy định tại Khoản 2 Điều 29 và thêm đó là C sẽ
được hưởng thù lao từ B.
2.
Giới hạn quyền của người biểu diễn:
Bên cạnh những quyền như trên, tổ chức cá nhân được
phép khai thác, sử dụng bản ghi âm cuộc biểu diễn mà không phải xin phép nhưng
vẫn phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho các thủ thể trong đó
có người biểu diễn. Các trường hợp này được quy định tại điều 33 Luật
SHTT bao gồm việc sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm ghi hình
đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu
tiền dưới bất kì hình thức nào. Đồng thời tại Khoản 4 Điều 32 Nghị định
22/2018/NĐ-CP cũng quy định: “Việc hưởng tiền thù lao của người biểu diễn
trong trường hợp bản ghi âm, ghi hình được sử dụng theo quy định tại Điều 33 của Luật SHTT tùy thuộc vào thoả thuận của người
biểu diễn với nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình khi thực hiện chương trình ghi
âm, ghi hình”.
Tuy nhiên quy định này lại lặp lại bất cập tương tự
như Khoản 4 Điều 29 Luật SHTT. Điều luật không quy định rõ người biểu diễn có
phải là chủ đầu tư hay không. Và nếu người biểu diễn không phải là chủ đầu tư
thì việc trả thù lao sẽ như thế nào? Đây là một lỗ hổng rất lớn mà pháp luật sở
hữu trí tuệ Việt Nam cần phải hoàn thiện hơn.
*Về thời hạn bảo
hộ quyền của người biểu diễn được quy định tại Khoản 1 Điều 34 Luật
SHTT, cụ thể: quyền bảo hộ của người biểu diễn được bảo hộ 50 năm tính từ năm
tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình. Và thời hạn bảo hộ chấm dứt
vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ
các quyền liên quan.
*Bên cạnh đó Điều 35 Luật SHTT còn quy định những hành
vi xâm phạm quyền của người biểu diễn: Chiếm đoạt quyền của người biểu diễn;
Mạo danh người biểu diễn; Công bố, sản xuất và phân phối cuộc biểu diễn đã được
định hình mà không được phép của người biểu diễn; Sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc
dưới bất kỳ hình thức nào đối với cuộc biểu diễn gây phương hại đến danh dự và
uy tín của người biểu diễn; Sao chép, trích ghép đối với cuộc biểu diễn đã được
định hình mà không được phép của người biểu diễn; Phát sóng, phân phối, nhập khẩu
để phân phối đến công chúng cuộc biểu diễn, bản sao cuộc biểu diễn đã được định
hình khi biết hoặc có cơ sở để biết thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện
tử đã bị dỡ bỏ hoặc đã bị thay đổi mà không được phép của chủ sở hữu. Ví dụ:
Ông A là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả sáng tác nhiều ca khúc thiếu
nhi. Ông B tổ chức buổi biểu diễn có thu vé vào cửa, thuê ca sĩ C hát ca khúc của
ông A nhưng ông B đã thuê C thông qua D. Đến khi cuộc biểu diễn bắt đầu thì D
là đồng nghiệp của C đã không cho C biết về việc B thuê C rồi mạo danh ca sĩ C
để hát những ca khúc đó để nhằm mục đích kiếm lợi. Đây là hành vi mạo danh người
biểu diễn.
Có thể thấy pháp luật đã có quy định cụ thể, chặt chẽ
để bảo hộ quyền đối với người biểu diễn. Theo đó, khi biểu diễn các tác phẩm,
người biểu diễn trước tiên phải tuân thủ các nghĩa vụ xin phép và trả tiền cho
tác giả theo quy định của pháp luật, khi đó tác giả sẽ được thụ hưởng các quyền
mà pháp luật cho phép. Và chính vì vậy nên việc bảo hộ quyền người biểu diễn rất
quan trọng.
Nếu bạn đọc có vướng mắc vui lòng liên hệ 0976933335
- 0982033335 để được hỗ trợ nhanh nhất. Hoặc E-mail:
luathongthai@gmail.com.
Trụ sở chính: LK9-38 Tổng cục 5, Tân Triều, Hà Nội
(cuối đường Chiến Thắng, Thanh Xuân).
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ
tư vấn của chúng tôi:
- Dịch
vụ Luật sư lĩnh vực Hình sự - 0982.033.335
- Dịch
vụ pháp lý lĩnh vực Đất đai - 0976.933.335
- Dịch
vụ tư vấn nhân sự và quản lý lao động - 0976.933.335
- Dịch
vụ pháp lý lĩnh vực Doanh Nghiệp - 0982.033.335
- Dịch
vụ Luật sư lĩnh vực Hôn nhân và gia đình - 0976.933.335
Hồng Dinh