Về vấn đề này, hiện nay được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật
hiện hành, nhưng chủ yếu được xác định theo nội dung quy định tại Thông tư 166/2013/TT-BTC, và Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, khái quát chung về xử phạt hành chính
trong lĩnh vực thuế:
“Xử phạt vi phạm hành chính”, căn cứ theo quy định tại khoản 2
Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, được hiểu là hành vi của người có thẩm quyền
xử phạt, theo đó họ thực hiện việc áp dụng các hình thức xử phạt, biện pháp
khắc phục hậu quả đối với một cá nhân, tổ chức khi họ có hành vi vi phạm hành
chính. Trong đó, vi phạm hành chính, theo khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm
hành chính năm 2012, được hiểu là hành vi vi phạm quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước, thuộc phạm vi áp dụng của các quy định của pháp luật về xử
phạt hành chính và đây là hành vi có lỗi của cá nhân nhưng chưa đến mức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự.
Trên cơ sở này, có thể hiểu, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thuế là việc cơ quan có thẩm quyền (cụ thể ở đây là người có thẩm quyền xử
phạt), vận dụng các quy định của pháp luật về thuế, từ đó áp dụng các hình thức
xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực về thuế. Đồng thời, căn cứ theo quy định tại
Điều 1 Thông tư 166/2013/TT-BTC thì các đối tượng bị xử phạt hành chính về lĩnh vực thuế
không chỉ là cá nhân, mà còn có thể là tổ chức tín dụng, hoặc tổ chức khác có
hành vi vi phạm về thuế.
Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế thường được thể
hiện ở các nội dung như:
– Đối với người nộp thuế, thường thể hiện ở các hành vi vi
phạm quy định về thủ tục về thuế như chậm trong việc nộp thuế, kê khai thuế, kê
khai không đầy đủ, không đúng trong hồ sơ khai thuế…; hành vi vi phạm trong quá
trình nộp thuế như trốn thuế, gian lận thuế;…
– Đối với tổ chức tín dụng và các tổ chức, cá nhân khác thường thể
hiện ở các hành vi thông đồng, bao che cho người nộp thuế trốn thuế, gian lận
thuế; chống đối các quyết định hành chính về thuế; cung cấp không đầy đủ thông
tin người nộp thuế cho cơ quan có thẩm quyền quản lý thuế…
Thứ hai, các hình thức xử phạt hành chính về
thuế.
Khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế,
nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, thì theo quy định tại Luật xử
lý vi phạm hành chính năm 2012, Thông tư 166/2013/TT-BTC thì cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về thuế
có thể căn cứ theo quy định của pháp luật, để áp dụng các hình thức xử phạt vi
phạm hành chính về lĩnh vực thuế. Cụ thể, căn cứ theo quy định tại Điều 6 Thông
tư 166/2013/TT-BTC, hiện nay, có các hình thức xử phạt vi phạm hành chính về
thuế sẽ được xác định gồm các hình thức sau: Phạt cảnh cáo, hoặc phạt
tiền.
Trong đó, việc áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
này sẽ được xác định cụ thể như sau:
·
Phạt
cảnh cáo:
Hình phạt cảnh cáo được áp dụng đối với những hành vi vi phạm thủ
tục thuế không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và trong quy định của pháp
luật về nội dung xử phạt đối với hành vi vi phạm này có quy định về hình thức
xử phạt cảnh cáo. Việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo phải thể hiện bằng
văn bản.
Cụ thể: Hiện nay trong văn bản quy định chi tiết về xử phạt vi
phạm hành chính về thuế, cụ thể là Thông tư 166/2013/TT-BTC thì hình thức xử phạt
cảnh cáo được áp dụng đối với những hành vi vi phạm sau:
– Áp dụng với hành vi nộp hồ sơ đăng ký thuế hoặc thông báo thay
đổi thông tin trong hồ sơ đăng ký thuế cho cơ quan thuế quá thời hạn phải nộp
từ 01 đến 10 ngày mà người vi phạm có nhiều tình tiết giảm nhẹ (căn cứ theo
khoản 1 Điều 7 Thông tư 166/2013/TT-BTC).
– Áp dụng với hành vi nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn từ 01 đến
05 ngày mà người vi phạm có nhiều tình tiết giảm nhẹ (theo quy định tại khoản 1
Điều 9 Thông tư 166/2013/TT-BTC).
·
Phạt
tiền:
Về vấn đề áp dụng hình thức phạt tiền, thì căn cứ theo quy định
tại khoản 2 Điều 6 Thông tư 166/2013/TT-BTC, mức phạt tiền được xác định theo
từng hành vi vi phạm cụ thể, mức độ vi phạm để xác định. Tuy nhiên, có thể phân
thành các nhóm hành vi như sau:
– Đối với hành vi vi phạm về thủ tục thuế:
Mức phạt tiền tuyệt đối tối đa có thể áp dụng được xác định không
quá 200 triệu đồng nếu là tổ chức nộp thuế có hành vi vi phạm; không quá 100
triệu đồng đối với cá nhân nộp thuế vi phạm.
Tư vấn pháp luật miễn phí 19006248
Trong đó, lưu ý, nội dung quy định về mức tiền xử phạt hành chính
đối với hành vi chậm nộp hồ sơ đăng ký thuế, chậm nộp hồ sơ khai thuế, chậm
thông báo thay đổi thông tin trong hồ sơ đăng ký thuế so với thời hạn quy định;
hay hành vi khai không đầy đủ nội dung trong hồ sơ thuế; vi phạm quy định về
cung cấp thông tin liên quan đến nghĩa vụ thuế, về việc chấp hành quyết định
kiểm tra, thanh tra, cưỡng chế về thuế được quy định tại các khoản 7, 8, 9, 10,
11 Thông tư 166/2013/TT-BTC được xác định là mức phạt quy định đối với tổ chức
có hành vi vi phạm. Nhưng nếu những hành vi vi phạm pháp luật về thuế nêu trên
do cá nhân trực tiếp thực hiện thì mức tiền phạt được xác định là 1/2 mức phạt
tiền của tổ chức. Trong đó hộ gia đình sẽ được tính như là cá nhân, chịu mức
phạt tiền áp dụng như với cá nhân chứ không áp dụng mức của tổ chức.
Về mặt nguyên tắc, khi quy định về mức phạt tiền trong việc xử
phạt vi phạm hành chính nói chung, và xử phạt hành chính trong lĩnh vực thuế
nói riêng thì pháp luật thường quy định theo khung phạt tiền với cách thể hiện
là mức tiền phạt tối đa đến mức tiền phạt tối thiểu (ví dụ từ 100.000 đồng –
300.000 đồng).
Nhưng khi thực hiện việc xác định mức phạt tiền cụ thể áp dụng
trên thực tế với một hành vi vi phạm thường được tính là mức trung bình của
khung phạt tiền được quy định áp dụng với hành vi đó, và được tính bằng công
thức:
Mức tiền phạt cụ thể của một hành vi = (mức tiền phạt tối thiểu +
mức tiền phạt tối đa của khung phạt tiền)/2.
Trong việc xác định mức tiền phạt, sẽ cần xem xét đến các tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hành chính của người thực hiện hành vi vi
phạm này. Theo đó, cứ một tình tiết giảm nhẹ sẽ được giảm trừ một tình tiết
tăng nặng. Sau khi đã giảm trừ hết các tình tiết tăng nặng mà khi xem xét người
thực hiện hành vi vi phạm còn nhiều tình tiết giảm nhẹ, thì họ sẽ được giảm nhẹ
mức tiền phạt phải nộp, nhưng mức tiền phạt phải nộp sau khi giảm không được ít
hơn mức tối thiểu của khung phạt tiền. Nếu còn tình tiết tăng nặng thì mức tiền
phạt được áp dụng cho người có hành vi vi phạm không có là mức trung bình của
khung tiền phạt nữa mà có thể tăng lên, nhưng mức phạt tiền phải nộp của người
vi phạm cũng không được quá mức tối đa của khung phạt tiền. Trong đó, cứ
mỗi tình tiết tăng nặng thì bị tính tăng 20% mức phạt trung bình của khung hình
phạt, còn mỗi tình tiết giảm nhẹ thì sẽ được giảm 20% mức phạt trung bình của
khung hình phạt.
–
Đối với hành vi kê khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số
tiền thuế được hoàn:
Trường hợp này, việc xử phạt hành vi vi phạm về thuế này theo hình
thức phạt tiền sẽ được áp dụng với mức phạt 20% trên số tiền thuế thuế, số tiền
thuế được hoàn, không phân biệt người nộp thuế vi phạm là tổ chức, là hộ gia
đình hay cá nhân.
– Đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế:
Trường hợp này tùy vào mức độ vi phạm và hậu quả của hành vi trốn
thuế, gian lận thuế mà người vi phạm có thể bị phạt tiền từ 1 đến 3 lần số tiền
thuế trốn. Mức xử phạt cụ thể sẽ được xác định theo Điều 13 Thông tư
166/2013/TT-BTC. Tuy nhiên mức xử phạt quy định tại Điều 13 Thông tư nêu trên
là mức xử phạt áp dụng với tổ chức, còn hộ gia đình, cá nhân chỉ bị phạt với
mức là 1/2 mức phạt tiền áp dụng với tổ chức.
– Đối với hành vi vi phạm hành chính của tổ chức tín dụng:
Đối với hành vi vi phạm hành chính của các tổ chức tín dụng trong
lĩnh vực thuế thì mức phạt tiền được xác định bằng số tiền tương ứng không
trích nộp vào tài khoản của ngân sách Nhà nước.
Có thể thấy, cá nhân, tổ chức hoặc hộ gia đình nộp thuế khi có
hành vi vi phạm hành chính về thuế mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình
sự thì đều có thể bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền. Việc áp
dụng hình thức nào phụ thuộc vào từng hành vi vi phạm. Tuy nhiên, dù áp dụng
hình thức xử phạt cảnh cáo hay phạt tiền thì việc xử phạt hành chính đều phải
đáp ứng nguyên tắc chung được quy định tại Điều 2 Thông tư 166/2013/TT-BTC,
trong đó có đề cập một số nguyên tắc đáng lưu ý sau:
– Mọi hành vi vi phạm khi được phát hiện đều phải được kịp thời
ngăn chặn, xử lý và khắc phục hậu quả theo đúng quy định của pháp luật.
– Chỉ được xử phạt một lần đối với một hành vi vi phạm hành chính.
– Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về thuế thì trước
khi áp dụng quyết định xử phạt, phải có trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm
của mỗi cá nhân, tổ chức vi phạm.
– Một người khi bị phát hiện thì có nhiều hành vi vi phạm hành
chính về thuế, hoặc thực hiện hành vi nhiều lần thì khi xử phạt sẽ áp dụng theo
từng hành vi phạm.
– Mức phạt tiền áp dụng với cá nhân có hành vi vi phạm hành chính
về thuế luôn được xác định bằng 1/2 mức phạt tiền áp dụng với tổ chức thực hiện
hành vi này, trừ trường hợp phạt tiền đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu
tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế phải nộp.
Như vậy, xử phạt hành vi vi phạm hành chính về thuế chỉ được áp dụng theo
một trong hai hình thức: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền. Việc cơ quan có thẩm
quyền quyết định áp dụng hình thức nào còn căn cứ vào nội dung hành vi vi phạm,
tuy nhiên đều dựa trên những nguyên tắc chung nhất định. Dù phạt tiền hay phạt
cảnh cáo đều phải căn cứ vào quy định của pháp luật, mức độ hành vi vi phạm,
các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người vi phạm.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp qua tổng đài, gọi số: 1900.6248