(Ảnh Internet)
Điều 221 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định quyền sở hữu được xác lập đối với tài
sản trong trường hợp sau đây:
“1. Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh
doanh hợp pháp, do hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
2. Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc
theo bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
3. Thu hoa lợi, lợi tức.
4. Tạo thành tài sản mới do sáp nhập, trộn lẫn,
chế biến.
5. Được thừa kế.
6. Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy
định đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị
chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy; tài sản do người khác đánh rơi,
bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên.
7. Chiếm hữu, được lợi về tài sản theo quy định
tại Điều 236 của Bộ luật này.
8. Trường hợp khác do luật quy định”.
Như vậy, một trong những căn cứ để xác lập quyền
sở hữu là người chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài
sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu. Thông tin của bạn cho thấy,
người lái xe phát hiện tài sản do hành khách để lại, nhưng không có thông tin
của hành khách để trả lại. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc số tài
sản này ngay lập tức được xác định là tài sản vô chủ, tài sản không xác định
được chủ sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự.
Bởi vì, theo khoản 1 Điều 230 Bộ luật Dân sự năm
2015, “người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa
chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho
người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông
báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất
để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã
nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở
hữu”.
Như vậy, khi phát hiện tài sản của hành khách
đánh rơi, bỏ quên trên xe nhưng không thể trả lại do không có thông tin liên
hệ, trước hết, người lái xe có nghĩa vụ giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã
hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà
nhận lại.
Theo khoản 2 của Điều này, sau 01 năm, kể từ ngày
thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác
định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với
tài sản này được xác định như sau:
“a) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có
giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì
người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của
Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp tài sản có
giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ
chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ
sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ
sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;
b) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là
tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa
thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản
tiền thưởng theo quy định của pháp luật”.
Có nghĩa là, chỉ đến khi hết thời hạn 01 năm kể
từ ngày Ủy ban nhân dân hoặc công an cấp xã thông báo công khai về tài sản do
người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu
không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này, tùy theo giá trị tài sản
mà người lái xe mới được xác lập quyền sở hữu như trên.
Việc thông báo, giao nộp cho cơ quan có thẩm
quyền là trách nhiệm bắt buộc của người nhặt được tài sản do người khác đánh
rơi, bỏ quên. Nếu chiếm giữ luôn là chiếm hữu tài sản của người khác không có
căn cứ phát luật, người có hành vi này phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả được
quy định tại Điều 579 của Bộ luật này. Đó là:
“1. Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của
người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ
thể có quyền khác đối với tài sản đó; nếu không tìm được chủ sở hữu, chủ thể có
quyền khác đối với tài sản thì phải giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
trừ trường hợp quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.
2. Người được lợi về tài sản mà không có căn cứ
pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại thì phải hoàn trả khoản lợi đó cho
người bị thiệt hại, trừ trường hợp quy định tại Điều 236 của Bộ luật này”.
Thậm chí, tùy vào giá trị tài sản, người này còn
có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội chiếm giữ trái phép tài sản được
quy định tại Điều 176 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017
như sau:
“1. Người nào cố tình không trả lại cho chủ
sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách
nhiệm tài sản trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc dưới 10.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được,
sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách
nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì bị phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02
năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội chiếm giữ tài sản trị giá 200.000.000 đồng trở
lên hoặc bảo vật quốc gia, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.