I.Căn cứ pháp lý:
Luật
sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009
II.Nội dung tư vấn:
Điều
130 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi 2009 như sau:
“1. Các hành vi sau đây bị coi là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây
nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của
hàng hoá, dịch vụ;
b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây
nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác
của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ;
c) Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại
một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại
diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc
đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ
sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
d) Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng
hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên
thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền
sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại
đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.
2. Chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này
là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm
nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn
địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá.
3. Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại
quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm các hành vi gắn chỉ dẫn
thương mại đó lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao
dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán,
nhập khẩu hàng hoá có gắn chỉ dẫn thương mại đó.”
Như vậy, trong thời gian chờ cấp văn bằng bảo
hộ nhãn hiệu chủ sở hữu phát hiện bị xâm phạm nhãn hiệu thì đây là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Vì vậy chủ sở hữu có thể áp dụng các biện pháp sau đây để
xử lý:
Biện pháp tự bảo vệ:
Biện pháp tự bảo vệ cho phép chủ thể quyền
SHTT được tiến hành các biện pháp trong khuôn khổ pháp luật nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ liên quan đến nhãn hiệu. Biện pháp tự bảo vệ được tiến
hành trước hết ở hành vi tiến hành các thủ tục cần thiết để bảo hộ nhãn hiệu
như xác lập quyền sở hữu đối với nhãn hiệu thông qua đơn xin cấp văn bằng bảo hộ.
Biện pháp tự bảo vệ xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự được
ghi nhận tại Điều 225 BLDS về quyền bảo vệ tài sản và ghi nhận cụ thể tại Điều
9, Điều 198 Luật SHTT năm 2005.
Mặt
khác, khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu xảy ra, chủ thể có quyền lựa
chọn các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu của mình như: Yêu cầu tổ chức,
cá nhân có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm xâm phạm, buộc người
có hành vi xâm phạm phải xin lỗi, cải chính công khai; yêu cầu người có hành vi
xâm phạm phải bồi thường thiệt hại; yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý hành vi vi phạm hoặc khởi kiện tại Tòa án hoặc yêu cầu trọng tài giải quyết
bảo vệ quyền lợi của mình.
Bên cạnh đó, tại Khoản 2, Điều 198, Luật
SHTT cũng quy định: “Tổ chức, cá nhân bị
thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc phát hiện hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội có
quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật liên
quan.” Như vậy, không chỉ có chủ sở hữu nhãn hiệu mới có thể tiến hành các
biện pháp tự bảo vệ mà ngay cả các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại hoặc phát hiện
ra hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu, gây thiệt hại cho chủ sở hữu, người
tiêu dùng và cho xã hội có thể yêu cầu cơ quan chức năng xử lý.
Biện pháp tự bảo vệ thể hiện cao nhất sự định
đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật. Nó thể hiện sự chủ động trong việc
tự bảo vệ mà không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào cũng như không phụ thuộc
vào sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Biện pháp tự bảo vệ có tính
kinh tế cao nhất do tiết kiệm được thoài gian, chi phí tốn kém cho việc giải
quyết tranh chấp. Tuy nhiên, có những ưu thế nhất định nhưng các chủ thể vẫn
hay ưu tiên chọn cách nhờ sự can thiệp của các cơ quan chức năng, vừa đảm bảo
công bằng, vừa đảm bảo tính cưỡng chế.
Biện pháp hành chính :
Điều 211. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử
phạt hành chính
“1. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ sau đây bị xử phạt hành chính:
a) Thực hiện hành vi xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội;
b) Không chấm dứt hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ mặc dù đã được chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thông báo bằng
văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó;
c) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển,
buôn bán hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định tại Điều 213
của Luật này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này;
d) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển,
buôn bán vật mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự đến mức gây
nhầm lẫn với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ hoặc giao cho người khác thực
hiện hành vi này.
2.
Chính phủ quy định cụ thể về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt
hành chính, hình thức, mức phạt và thủ tục xử phạt các hành vi đó.
3.
Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ
thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh.”
Khi một hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn
hiệu bị xử phạt hành chính xảy ra, cơ quan nhà nước sẽ yêu cầu chủ thể bị vi phạm
phải chấm dứt hành vi xâm phạm và buộc áp dụng một trong các hình thức xử phạt
vi phạm hành chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền.
Bên cạnh đó, tùy theo tính chất, mức độ xâm
phạm, người xâm phạm có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức phạt bổ sung
như: tịch thu hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được
sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm nhãn hiệu, đình chỉ
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm trong một thời gian nhất
định. Thêm vào đó, người thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu nhãn hiệu
còn phải chịu áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hâu quả gồm: buộc tiêu
hủy hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với
hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu với điều kiện không làm ảnh hưởng đén
khả năng khai thác của chủ thể quyền sở hữu nhãn hiệu; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ
Việt Nam đối với hàng hóa quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu,
phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất,
kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu sau khi đã loại bỏ các yếu
tố xâm phạm trên hàng hóa.
Để bảo đảm việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu
nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính đạt hiệu quả, Luật SHTT cho phép các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt
vi phạm hành chính trong các trường hợp cụ thể: hành vi xâm phạm quyền sở hữu
nhãn hiệu có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho người tiêu dùng hoặc cho
xã hội; tang vật vi phạm có nguy cơ bị tẩu tán hoặc cá nhân, tổ chức có biểu hiện
trốn tránh trách nhiệm trong trường hợp nhằm bảo đảm thi hành quyết định hành
chính (khoản 1 Điều 125 Luật SHTT). Các biện pháp cụ thể là tạm giữ người, tạm
giữ hàng hóa, tang vật, phương tiện vi phạm; khám phương tiện vận tải, khám nơi
cất giấu hàng hóa,...
Ưu điểm của biện pháp này là nhanh
chóng, đơn giản và ít tốn kém. Tuy nhiên, biện pháp này còn một số nhược điểm cần
đưa ra để xem xét như việc pháp luật quy định thẩm quyền xử lý vi phạm cho nhiều
cơ quan dẫn tới tình trạng hoạt động chồng chéo, đôi khi không có cơ quan nào xử
lý vi phạm.
Biện pháp dân sự
–
Khi xảy ra tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu nhãn hiệu bị xâm phạm có
quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố giải
quyết
–
Tòa án có thẩm quyền xử lý vi phạm nhãn hiệu buộc bên xâm phạm thực hiện việc:
+
Chấm dứt hành vi xâm phạm
+
Xin lỗi, cải chính công khai
+
Thực hiện nghĩa vụ dân sự
+
Bồi thường thiệt hại
+
Tiêu hủy hoặc phân phố hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối
với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản
xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm nhãn hiệu (với điều kiện không làm ảnh đến
khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ)
CÔNG
TY LUẬT TNHH QUỐC TẾ HỒNG THÁI VÀ ĐỒNG NGHIỆP TRÂN TRỌNG!
Để
có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật
sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp qua Tổng
đài tư vấn pháp luật 19006248 hoặc E-mail:luathongthai@gmail.com
Trụ
sở chính:
LK9-38
Tổng cục 5, Tân Triều, Hà Nội (cuối đường Chiến Thắng, Thanh Xuân)
Phạm Hiện