Thứ
nhất, mở rộng diện đối tượng chịu thuế. Theo Thông tư 103, một doanh
nghiệp ở nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam, nhưng có hoạt động
phân phối hàng hóa, cung cấp dịch vụ tại Việt Nam thông qua một tổ chức
Việt Nam cũng có thể nằm trong diện chịu thuế nhà thầu nước ngoài.
Ví dụ, một công ty nước ngoài giao hàng
hóa cho một công ty ở Việt Nam để phân phối, trong đó công ty nước ngoài
vẫn nắm quyền sở hữu, hoặc chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa,
hoặc vẫn có quyền ấn định giá bán hàng hóa, thì công ty nước ngoài sẽ
phải chịu thuế nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam đối với hoạt động kinh
doanh này.
Tương tự, nếu công ty nước ngoài ủy
quyền cho một công ty Việt Nam thực hiện một số dịch vụ, song công ty
nước ngoài chịu trách nhiệm về chất lượng dịch vụ, hoặc có quyền ấn định
giá phí dịch vụ, thì công ty nước ngoài cũng sẽ thuộc diện chịu thuế
nhà thầu nước ngoài. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân nước ngoài thông qua tổ
chức, cá nhân Việt Nam để thực hiện việc đàm phán, ký kết hợp đồng đứng
tên tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng nằm trong diện chịu thuế nhà thầu
nước ngoài.
Như vậy, một công ty Việt Nam được ủy
quyền phân phối, hoặc thực hiện dịch vụ, hoặc thực hiện đàm phán, ký kết
hợp đồng đứng tên công ty nước ngoài có thể phải kê khai và tính thuế
nhà thầu nước ngoài thay cho công ty nước ngoài – điều mà trước đây họ
chưa phải thực hiện, do hoạt động này không được đề cập trong Thông tư
60.
Quy định này sẽ mở rộng đáng kể đối
tượng chịu thuế nhà thầu nước ngoài so với quy định hiện hành. Với quy
định này, các công ty cả nước ngoài và Việt Nam cần rà soát kỹ các điều
khoản trong hợp đồng ký sau ngày 1/10/2014, đặc biệt là về nghĩa vụ và
rủi ro với hàng hóa, để tránh rủi ro bỏ sót không kê khai và nộp thuế
cho những hợp đồng lẽ ra thuộc diện chịu thuế.
Thứ hai, không đánh thuế hoạt động bán
hàng có kèm bảo hành, nhưng không kèm dịch vụ. Thông tư 103 quy định
không đánh thuế nhà thầu nước ngoài nếu bên bán có nghĩa vụ bảo hành,
nhưng chỉ giao hàng và chịu chi phí, rủi ro đến cửa khẩu Việt Nam.
Như vậy, nếu bên bán nước ngoài chỉ đơn
thuần cung cấp hàng hóa đến cửa khẩu Việt Nam theo các điều kiện, ví dụ
FOB hay CIF và không thực hiện bất kỳ hoạt động hoặc dịch vụ gì liên
quan ở Việt Nam, thì kể cả trường hợp hợp đồng có điều khoản bảo hành,
bên bán đó sẽ không phải chịu thuế nhà thầu nước ngoài.
Quy định này đã giải quyết được một vấn
đề đang gây nhiều tranh luận lâu nay là cho dù trong trường hợp hợp đồng
chỉ có điều khoản bảo hành và không kèm thêm bất kỳ dịch vụ nào, bên
Việt Nam vẫn buộc phải tính và kê khai thuế nhà thầu cho người bán nước
ngoài (có khi lên đến 5% thuế GTGT và 5% thuế TNDN trên cả giá trị hợp
đồng), theo một số công văn từ cuối năm 2012 đến nay của Tổng cục Thuế
và các cục thuế địa phương.
Tuy nhiên, hiện chưa rõ quy định miễn
trừ trong Thông tư 103 có được áp dụng nếu nhà thầu thực hiện việc bảo
hành tại Việt Nam và cũng chưa rõ quy định này có được áp dụng hồi tố
lại để điều chỉnh các công văn về bảo hành trước đây của Tổng Cục Thuế
hay không. Đây là vấn đề mà nhiều doanh nghiệp mong muốn được làm rõ
trong các công văn hướng dẫn tới đây.
Thứ ba, hợp đồng xây dựng, lắp đặt có
thể tách riêng giá trị của từng hoạt động. Thông tư 60 trước đây có đưa
ra một thay đổi so với các thông tư trước về thuế nhà thầu nước ngoài về
trường hợp hợp đồng xây dựng, lắp đặt có bao thầu nguyên vật liệu, hoặc
máy móc thiết bị đi kèm công trình xây dựng, cả hợp đồng sẽ chịu thuế
nhà thầu nước ngoài, với tỷ lệ giá trị gia tăng (GTGT) 30% (trong hầu
hết trường hợp tương đương thuế GTGT ấn định là 3%) và thuế thu nhập
doanh nghiệp (TNDN) 2% trên giá trị hợp đồng, bất kể có tách được giá
trị của từng hoạt động hay không.
Trong Thông tư 103, tỷ lệ ấn định (2%
thuế TNDN và 3% thuế GTGT) trên toàn giá trị hợp đồng trong trường hợp
trên (xây dựng, lắp đặt có bao thầu nguyên vật liệu, hoặc máy móc thiết
bị) sẽ chỉ áp dụng nếu hợp đồng nhà thầu không tách riêng được giá trị
từng hoạt động kinh doanh. Chắc chắn, các nhà thầu nước ngoài sẽ thấy
quy định trong Thông tư 103 có lợi hơn, vì họ có thể linh hoạt chọn lựa
phương án để tiết kiệm thuế nhà thầu nước ngoài.
Ví dụ, nếu giá trị máy móc thiết bị
chiếm tỷ lệ lớn trong giá trị hợp đồng, họ có thể xem xét tách giá trị
hợp đồng. Ngược lại, nếu giá trị dịch vụ lớn, việc không tách hợp đồng
có thể là một phương án có lợi hơn.
Theo Phan Vũ Hoàng
Phó tổng giám đốc Dịch vụ Tư vấn thuế (Deloitte Việt Nam)/baodautu.vn