Bộ luật tố tụng hình sự 2003
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Căn cứ vào Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X,
kỳ họp thứ 10;
Bộ luật này quy
định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án hình sự.
Phần thứ
nhất
NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG
Chương I
NHIỆM VỤ VÀ
HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều 1. Nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng
hình sự
Bộ luật tố tụng
hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành
tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan,
tổ chức và công dân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng
ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội.
Bộ luật tố tụng
hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Điều 2. Hiệu lực của Bộ luật tố tụng
hình sự
Mọi hoạt động tố
tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được
tiến hành theo quy định của Bộ luật này.
Hoạt động tố tụng
hình sự đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là công dân nước thành viên của điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì được tiến hành
theo quy định của điều ước quốc tế đó.
Đối với người nước
ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối
tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ về lãnh
sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập hoặc theo tập quán quốc tế, thì vụ
án được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Chương II
NHỮNG NGUYÊN
TẮC CƠ BẢN
Điều 3. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự
Mọi hoạt động tố
tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này.
Điều 4. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân
Khi tiến hành tố
tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án,
Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp
và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi
những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết
nữa.
Điều 5. Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật
Tố tụng hình sự tiến
hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân
biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
Điều 6. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm
về thân thể của công dân
Không ai bị bắt,
nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc bắt và giam
giữ người phải theo quy định của Bộ luật này.
Nghiêm cấm mọi
hình thức truy bức, nhục hình.
Điều 7. Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, tài sản của công dân
Công dân có quyền
được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản.
Mọi hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp
luật.
Người bị hại,
người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ
mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản
thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần
thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Điều 8. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm
về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân
Không ai được xâm
phạm chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân.
Việc khám xét chỗ
ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện tín, khi tiến hành tố tụng phải
theo đúng quy định của Bộ luật này.
Điều 9. Không ai bị coi là có tội khi
chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
Không ai bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật.
Điều 10. Xác định sự thật của vụ án
Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật
của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác
định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền
nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Điều 11. Bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này.
Điều 12. Trách nhiệm của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Trong quá trình
tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải
nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về
những hành vi, quyết định của mình.
Người làm trái
pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 13. Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ
án hình sự
Khi phát hiện có
dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện
pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.
Không được khởi tố
vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này quy định.
Điều 14. Bảo đảm sự vô tư của những người
tiến hành hoặc người tham gia tố tụng
Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm,
Thư ký Tòa án không được tiến hành tố tụng hoặc người phiên dịch, người giám
định không được tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể
không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
Điều 15. Thực hiện chế độ xét xử có Hội
thẩm tham gia
Việc xét xử của
Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân
tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với
Thẩm phán.
Điều 16. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Khi xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Điều 17. Toà án xét xử tập thể
Toà án xét xử tập
thể và quyết định theo đa số.
Điều 18. Xét xử công khai
Việc xét xử của
Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp
do Bộ luật này quy định.
Trong trường hợp
đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí
mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín, nhưng
phải tuyên án công khai.
Điều 19. Bảo đảm quyền bình đẳng trước
Toà án
Kiểm sát viên, bị
cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng
cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án. Tòa án
có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật
khách quan của vụ án.
Điều 20. Thực hiện chế độ hai cấp xét xử
1. Toà án thực
hiện chế độ hai cấp xét xử.
Bản án, quyết định
sơ thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật
này.
Bản án, quyết định
sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định
thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm
có hiệu lực pháp luật.
2. Đối với bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp
luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm.
Điều 21. Giám đốc việc xét xử
Toà án cấp trên
giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới, Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc
xét xử của Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp để bảo đảm việc áp dụng
pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất.
Điều 22. Bảo đảm hiệu lực của bản án và
quyết định của Toà án
1. Bản án và quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được các cơ
quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan
trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết
định của Toà án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó.
2. Trong phạm vi
trách nhiệm của mình, các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn,
tổ chức và công dân phải phối hợp với cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản
án, quyết định của Tòa án trong việc thi hành án.
Các cơ quan nhà
nước, chính quyền xã, phường, thị trấn có trách nhiệm tạo điều kiện và thực
hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của
Tòa án trong việc thi hành án.
Điều 23. Thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
1. Viện kiểm sát
thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người
phạm tội ra trước Toà án.
2. Viện kiểm sát
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát
hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này
quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này.
3. Viện kiểm sát
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Điều 24. Tiếng nói và chữ viết dùng
trong tố tụng hình sự
Tiếng nói và chữ viết
dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng
tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần phải có phiên
dịch.
Điều 25. Trách nhiệm của các tổ chức và
công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
1. Các tổ chức,
công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
2. Cơ quan tiến
hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để các tổ chức và công dân tham gia
tố tụng hình sự; phải trả lời kết quả giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
cho tổ chức đã báo tin, người đã tố giác tội phạm biết.
3. Các tổ chức,
công dân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ.
Điều 26. Sự phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng
1. Trong phạm vi
trách nhiệm của mình, các cơ quan nhà nước phải áp dụng các biện pháp phòng
ngừa tội phạm; phối hợp với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong việc
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Các cơ quan nhà
nước phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao; phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật để xử lý và phải
thông báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát mọi hành vi phạm tội xảy ra
trong cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình; có quyền kiến nghị và gửi các
tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố đối
với người có hành vi phạm tội.
Thủ trưởng các cơ
quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về việc không thông báo hành vi phạm tội
xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình cho Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát.
Các cơ quan nhà
nước có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ.
Nghiêm cấm mọi
hành vi cản trở hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng thực hiện nhiệm vụ.
2. Cơ quan thanh
tra có trách nhiệm phối hợp với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong
việc phát hiện và xử lý tội phạm. Khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm
thì phải chuyển ngay các tài liệu có liên quan và kiến nghị Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát xem xét, khởi tố vụ án hình sự.
3. Trong phạm vi
trách nhiệm của mình, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải xem xét, giải quyết
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và phải trả lời kết quả giải quyết cho
cơ quan nhà nước đã báo tin hoặc kiến nghị biết.
Điều 27. Phát hiện và khắc phục nguyên
nhân và điều kiện phạm tội
Trong quá trình
tiến hành tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có nhiệm
vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức
hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.
Các cơ quan, tổ
chức hữu quan phải trả lời về việc thực hiện yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Toà án.
Điều 28. Giải quyết vấn đề dân sự trong
vụ án hình sự
Việc giải quyết
vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án
hình sự. Trong trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường, bồi
hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ
án hình sự thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Điều 29. Bảo đảm quyền được bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan
Người bị oan do
người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi
thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi.
Cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và
phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách
nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Điều 30. Bảo đảm quyền được bồi thường
của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
hình sự gây ra
Người bị thiệt hại
do cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có
quyền được bồi thường thiệt hại.
Cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự phải bồi thường cho người bị thiệt hại;
người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật.
Điều 31. Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự
Công dân, cơ quan,
tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp
luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.
Cơ quan có thẩm
quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu
nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố
cáo biết và có biện pháp khắc phục.
Trình tự, thủ tục
và thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo do Bộ luật này quy định.
Điều 32. Giám sát của cơ quan, tổ chức,
đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng
Cơ quan nhà nước,
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu
dân cử có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Nếu phát hiện
những hành vi trái pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với cơ
quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ
luật này. Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết và
trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật.
Chương III
CƠ QUAN TIẾN
HÀNH TỐ TỤNG, NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ VIỆC THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
Điều 33. Cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng
1. Các cơ quan
tiến hành tố tụng gồm có:
a) Cơ quan điều
tra;
b) Viện kiểm sát;
c) Toà án.
2. Những người
tiến hành tố tụng gồm có:
a) Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên;
b) Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên;
c) Chánh án, Phó
Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án.
Điều 34. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
1. Thủ trưởng Cơ
quan điều tra có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Trực tiếp tổ
chức và chỉ đạo các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra;
b) Quyết định phân
công Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên trong việc điều tra vụ án
hình sự;
c) Kiểm tra các
hoạt động điều tra của Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên;
d) Quyết định thay
đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên;
đ) Quyết định thay
đổi Điều tra viên;
e) Giải quyết khiếu
nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra.
Khi Thủ trưởng Cơ
quan điều tra vắng mặt, một Phó Thủ trưởng được Thủ trưởng uỷ nhiệm thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng. Phó Thủ trưởng chịu trách nhiệm trước Thủ
trưởng về nhiệm vụ được giao.
2. Khi thực hiện
việc điều tra vụ án hình sự, Thủ trưởng Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
a) Quyết định khởi
tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định không khởi tố vụ án; quyết định nhập hoặc
tách vụ án;
b) Quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn;
c) Quyết định truy
nã bị can, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, xử lý vật chứng;
d) Quyết định
trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử thi;
đ) Kết luận điều
tra vụ án;
e) Quyết định tạm
đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định phục hồi điều tra;
g) Trực tiếp tiến
hành các biện pháp điều tra; cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra
các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Cơ
quan điều tra.
3. Khi được phân
công điều tra vụ án hình sự, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ
và quyền hạn được quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành
vi và quyết định của mình.
Điều 35. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Điều tra viên
1. Điều tra viên
được phân công điều tra vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Lập hồ sơ vụ án
hình sự;
b) Triệu tập và
hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án;
c) Quyết định áp
giải bị can, quyết định dẫn giải người làm chứng;
d) Thi hành lệnh
bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản;
đ) Tiến hành khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều
tra;
e) Tiến hành các
hoạt động điều tra khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra theo sự phân công
của Thủ trưởng Cơ quan điều tra.
2. Điều tra viên
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Thủ trưởng Cơ quan điều tra về
những hành vi và quyết định của mình.
Điều 36. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
1. Viện trưởng
Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức và chỉ
đạo các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tố tụng hình sự;
b) Quyết định phân
công Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự;
c) Kiểm tra các
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng hình sự của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
d) Kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Toà án theo quy định của pháp luật;
đ) Quyết định thay
đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
e) Quyết định rút,
đình chỉ hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Viện
kiểm sát cấp dưới;
g) Quyết định thay
đổi Kiểm sát viên;
h) Giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
Khi Viện trưởng
Viện kiểm sát vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ nhiệm thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng. Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước
Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.
2. Khi thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối
với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
a) Quyết định khởi
tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ
quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố
bị can theo quy định của Bộ luật này;
b) Yêu cầu Thủ
trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên;
c) Quyết định áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định gia hạn điều tra,
quyết định gia hạn tạm giam; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
d) Quyết định phê
chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra;
đ) Quyết định hủy
bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra;
e) Quyết định
chuyển vụ án;
g) Quyết định việc
truy tố, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định trưng cầu giám
định;
h) Quyết định tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, quyết định phục hồi điều tra, quyết định xử lý
vật chứng;
i) Kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của Toà án;
k) Cấp, thu hồi
giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố
tụng khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
3. Khi được phân
công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng đối với vụ án hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ
và quyền hạn được quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những
hành vi và quyết định của mình.
Điều 37. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Kiểm sát viên
1. Kiểm sát viên
được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
a) Kiểm sát việc
khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan
điều tra;
b) Đề ra yêu cầu
điều tra;
c) Triệu tập và
hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án;
d) Kiểm sát việc
bắt, tạm giữ, tạm giam;
đ) Tham gia phiên
toà; đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết
vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về
việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên
toà;
e) Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những người tham gia
tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án;
g) Kiểm sát việc
thi hành bản án, quyết định của Toà án;
h) Thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công
của Viện trưởng Viện kiểm sát.
2. Kiểm sát viên
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát về những
hành vi và quyết định của mình.
Điều 38. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án
1. Chánh án Toà án
có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức công
tác xét xử của Toà án;
b) Quyết định phân
công Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết, xét xử vụ án hình sự;
quyết định phân công Thư ký Tòa án tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự;
c) Quyết định thay
đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án trước khi mở phiên tòa;
d) Kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà
án theo quy định của Bộ luật này;
đ) Ra quyết định
thi hành án hình sự;
e) Quyết định hoãn
chấp hành hình phạt tù;
g) Quyết định tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù;
h) Quyết định xoá
án tích;
i) Giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Khi Chánh án Tòa
án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Chánh án. Phó Chánh án phải chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ
được giao.
2. Khi tiến hành
việc giải quyết vụ án hình sự, Chánh án Tòa án có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
a) Quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam; quyết định xử lý vật chứng;
b) Quyết định
chuyển vụ án;
c) Cấp, thu hồi
giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố
tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án.
3. Khi được phân
công giải quyết, xét xử vụ án hình sự, Phó Chánh án Toà án có các nhiệm vụ và
quyền hạn quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Chánh án, Phó
Chánh án Toà án phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết
định của mình.
Điều 39. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Thẩm phán
1. Thẩm phán được
phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
a) Nghiên cứu hồ sơ
vụ án trước khi mở phiên toà;
b) Tham gia xét xử
các vụ án hình sự ;
c) Tiến hành các
hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét
xử;
d) Tiến hành các
hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh
án Tòa án.
2. Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa, ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại
khoản 1 Điều này còn có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật này;
b) Quyết định trả
hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Quyết định đưa
vụ án ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;
d) Quyết định
triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên toà;
đ) Tiến hành các
hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Toà án theo sự phân công của Chánh
án Toà án.
3. Thẩm phán giữ
chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao có quyền
cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa.
4. Thẩm phán phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
Điều 40. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Hội thẩm
1. Hội thẩm được
phân công xét xử vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Nghiên cứu hồ
sơ vụ án trước khi mở phiên toà;
b) Tham gia xét xử
các vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm;
c) Tiến hành các
hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét
xử.
2. Hội thẩm phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
Điều 41. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Thư ký Tòa án
1. Thư ký Tòa án
được phân công tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
a) Phổ biến nội
quy phiên toà;
b) Báo cáo với Hội
đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến phiên toà;
c) Ghi biên bản
phiên toà;
d) Tiến hành các
hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh
án Tòa án.
2. Thư ký Tòa án
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Chánh án Tòa án về những hành vi
của mình.
Điều 42. Những trường hợp phải từ chối
hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng
Người tiến hành tố
tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
1. Họ đồng thời là
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những
người đó hoặc của bị can, bị cáo;
2. Họ đã tham gia
với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên
dịch trong vụ án đó;
3. Có căn cứ rõ
ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Điều 43. Quyền đề nghị thay đổi người
tiến hành tố tụng
Những người sau
đây có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng:
1. Kiểm sát viên;
2. Bị can, bị cáo,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của
họ;
3. Người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự.
Điều 44. Thay đổi Điều tra viên
1. Điều tra viên
phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại Điều 42 của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố
tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm hoặc Thư
ký Tòa án.
2. Việc thay đổi
Điều tra viên do Thủ trưởng Cơ quan điều tra quyết định.
Nếu Điều tra viên
là Thủ trưởng Cơ quan điều tra mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều này thì việc điều tra vụ án do Cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp
tiến hành.
Điều 45. Thay đổi Kiểm sát viên
1. Kiểm sát viên
phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại Điều 42 của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố
tụng trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm hoặc Thư
ký Tòa án.
2. Việc thay đổi
Kiểm sát viên trước khi mở phiên toà do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp
quyết định.
Nếu Kiểm sát viên
bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp quyết định.
Trong trường hợp
phải thay đổi Kiểm sát viên tại phiên toà thì Hội đồng xét xử ra quyết định
hoãn phiên toà.
Việc cử Kiểm sát
viên khác do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp quyết định.
Điều 46. Thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm
1. Thẩm phán, Hội
thẩm phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại Điều 42 của Bộ luật này;
b) Họ cùng trong
một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau;
c) Đã tham gia xét
xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án.
2. Việc thay đổi
Thẩm phán, Hội thẩm trước khi mở phiên toà do Chánh án Toà án quyết định. Nếu
Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án thì do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp
quyết định.
Việc thay đổi Thẩm
phán, Hội thẩm tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định trước khi bắt đầu
xét hỏi bằng cách biểu quyết tại phòng nghị án. Khi xem xét thành viên nào thì
thành viên đó được trình bày ý kiến của mình, Hội đồng quyết định theo đa số.
Trong trường hợp
phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên toà, thì Hội đồng xét xử ra quyết
định hoãn phiên toà.
Việc cử thành viên
mới của Hội đồng xét xử do Chánh án Toà án quyết định.
Điều 47. Thay đổi Thư ký Tòa án
1. Thư ký Tòa án
phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại Điều 42 của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố
tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán hoặc
Hội thẩm.
2. Việc thay đổi
Thư ký Tòa án trước khi mở phiên toà do Chánh án Toà án quyết định.
Việc thay đổi Thư
ký Tòa án tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định.
Trong trường hợp
phải thay đổi Thư ký Toà án tại phiên toà, thì Hội đồng xét xử ra quyết định
hoãn phiên toà.
Việc cử Thư ký Tòa
án khác do Chánh án Toà án quyết định.
Chương IV
NGƯỜI THAM
GIA TỐ TỤNG
Điều 48. Người bị tạm giữ
1. Người bị tạm
giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt
theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có
quyết định tạm giữ.
2. Người bị tạm
giữ có quyền:
a) Được biết lý do
mình bị tạm giữ;
b) Được giải thích
về quyền và nghĩa vụ;
c) Trình bày lời
khai;
d) Tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa;
đ) Đưa ra tài
liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Khiếu nại về
việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.
3. Người bị tạm
giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo quy định của pháp luật.
Điều 49. Bị can
1. Bị can là người
đã bị khởi tố về hình sự.
2. Bị can có
quyền:
a) Được biết mình
bị khởi tố về tội gì;
b) Được giải thích
về quyền và nghĩa vụ;
c) Trình bày lời
khai;
d) Đưa ra tài
liệu, đồ vật, yêu cầu;
đ) Đề nghị thay
đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định
của Bộ luật này;
e) Tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa;
g) Được nhận quyết
định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản
kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình
chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố
tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
h) Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Bị can phải có
mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp
vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị
truy nã.
Điều 50. Bị cáo
1. Bị cáo là người
đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử.
2. Bị cáo có
quyền:
a) Được nhận quyết
định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết
định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
b) Tham gia phiên
toà;
c) Được giải thích
về quyền và nghĩa vụ;
d) Đề nghị thay
đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định
của Bộ luật này;
đ) Đưa ra tài
liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa;
g) Trình bày ý
kiến, tranh luận tại phiên tòa;
h) Nói lời sau
cùng trước khi nghị án;
i) Kháng cáo bản
án, quyết định của Toà án;
k) Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Bị cáo phải có
mặt theo giấy triệu tập của Toà án; trong trường hợp vắng mặt không có lý do
chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
Điều 51. Người bị hại
1. Người bị hại là
người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.
2. Người bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
a) Đưa ra tài
liệu, đồ vật, yêu cầu;
b) Được thông báo
về kết quả điều tra;
c) Đề nghị thay
đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định
của Bộ luật này;
d) Đề nghị mức bồi
thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường;
đ) Tham gia phiên
toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình;
e) Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng
cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối
với bị cáo.
3. Trong trường
hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của
Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời
buộc tội tại phiên toà.
4. Người bị hại
phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; nếu
từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm
hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự.
5. Trong trường
hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền quy
định tại Điều này.
Điều 52. Nguyên đơn dân sự
1. Nguyên đơn dân
sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu
cầu bồi thường thiệt hại.
2. Nguyên đơn dân
sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
a) Đưa ra tài
liệu, đồ vật, yêu cầu;
b) Được thông báo
về kết quả điều tra;
c) Đề nghị thay
đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định
của Bộ luật này;
d) Đề nghị mức bồi
thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường;
đ) Tham gia phiên
toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn;
e) Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
g) Kháng cáo bản
án, quyết định của Toà án về phần bồi thường thiệt hại.
3. Nguyên đơn dân
sự phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
và trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc đòi bồi thường thiệt
hại.
Điều 53. Bị đơn dân sự
1. Bị đơn dân sự
là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi
thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
2. Bị đơn dân sự
hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
a) Khiếu nại việc
đòi bồi thường của nguyên đơn dân sự;
b) Đưa ra tài
liệu, đồ vật, yêu cầu;
c) Được thông báo
kết quả điều tra có liên quan đến việc đòi bồi thường;
d) Đề nghị thay
đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định
của Bộ luật này;
đ) Tham gia phiên
toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị đơn;
e) Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
g) Kháng cáo bản
án, quyết định của Toà án về phần bồi thường thiệt hại.
3. Bị đơn dân sự
phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và
trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
Điều 54. Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án
1. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
a) Đưa ra tài
liệu, đồ vật, yêu cầu;
b) Tham gia phiên
toà; phát biểu ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình;
c) Kháng cáo bản
án, quyết định của Toà án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của mình;
d) Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
2. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và trình bày trung thực những tình tiết trực
tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.
Điều 55. Người làm chứng
1. Người nào biết
được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm
chứng.
2. Những người sau
đây không được làm chứng:
a) Người bào chữa
của bị can, bị cáo;
b) Người do có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những
tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.
3. Người làm chứng
có quyền:
a) Yêu cầu cơ quan
triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng;
b) Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
c) Được cơ quan
triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của
pháp luật.
4. Người làm chứng
có nghĩa vụ:
a) Có mặt theo
giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; trong trường hợp cố
ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại
cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải;
b) Khai trung thực
tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án.
Người làm chứng từ
chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng, thì phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự; khai báo gian dối thì
phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự.
Điều 56. Người bào chữa
1. Người bào chữa
có thể là:
a) Luật sư;
b) Người đại diện
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Bào chữa viên
nhân dân.
2. Những người sau
đây không được bào chữa:
a) Người đã tiến
hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành
tố tụng trong vụ án đó;
b) Người tham gia
trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên
dịch.
3. Một người bào
chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một
vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Nhiều người bào chữa có
thể bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
4. Trong thời hạn
ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên
quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét,
cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối
cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
Đối với trường hợp
tạm giữ người thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị của người
bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra phải
xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu
từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
Điều 57. Lựa chọn và thay đổi người bào
chữa
1. Người bào chữa
do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa
chọn.
2. Trong những
trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ
không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải
yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc
đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử
người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:
a) Bị can, bị cáo
về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ
luật hình sự;
b) Bị can, bị cáo
là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Trong các trường
hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này, bị can, bị cáo và người đại
diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa.
3. Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào
chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Điều 58. Quyền và nghĩa vụ của người bào
chữa
1. Người bào chữa
tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định
tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ
khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội
xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người
bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
2. Người bào chữa
có quyền:
a) Có mặt khi lấy
lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý
thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra
khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các
quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
b) Đề nghị Cơ quan
điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi
cung bị can;
c) Đề nghị thay
đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định
của Bộ luật này;
d) Thu thập tài
liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá
nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật
nhà nước, bí mật công tác;
đ) Đưa ra tài
liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Gặp người bị
tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
g) Đọc, ghi chép
và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau
khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
h) Tham gia hỏi,
tranh luận tại phiên toà;
i) Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
k) Kháng cáo bản
án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ
luật này.
3. Người bào chữa
có nghĩa vụ:
a) Sử dụng mọi
biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai
đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người
bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc
giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố
tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này;
b) Giúp người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ;
c) Không được từ
chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào
chữa, nếu không có lý do chính đáng;
d) Tôn trọng sự
thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai
báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
đ) Có mặt theo
giấy triệu tập của Toà án;
e) Không được tiết
lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử
dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
4. Người bào chữa
làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy
chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của
pháp luật.
Điều 59. Người bảo vệ quyền lợi của
đương sự
1. Người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án hình sự có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình.
2. Người bảo vệ
quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
3. Người bảo vệ
quyền lợi của đương sự có quyền:
a) Đưa ra tài
liệu, đồ vật, yêu cầu;
b) Đọc, ghi chép
và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền
lợi của đương sự sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
c) Tham gia hỏi,
tranh luận tại phiên toà; xem biên bản phiên tòa;
d) Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Người bảo vệ quyền
lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền đề nghị thay
đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định
của Bộ luật này.
Đối với đương sự
là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì
người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy
lời khai của người mà mình bảo vệ; kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án
có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
4. Người bảo vệ
quyền lợi của đương sự có nghĩa vụ:
a) Sử dụng mọi
biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật của vụ án;
b) Giúp đương sự
về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Điều 60. Người giám định
1. Người giám định
là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám định được cơ quan tiến
hành tố tụng trưng cầu theo quy định của pháp luật.
2. Người giám định
có quyền:
a) Tìm hiểu tài
liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng phải giám định;
b) Yêu cầu cơ quan
trưng cầu giám định cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc kết luận;
c) Tham dự vào
việc hỏi cung, lấy lời khai và đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối
tượng giám định;
d) Từ chối việc
thực hiện giám định trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành giám định,
các tài liệu cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để kết luận, nội dung yêu
cầu giám định vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình;
đ) Ghi riêng ý
kiến kết luận của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận
chung trong trường hợp giám định do một nhóm người giám định tiến hành.
3. Người giám định
phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án;
không được tiết lộ bí mật điều tra mà họ biết được khi tham gia tố tụng với tư
cách là người giám định.
Người giám định từ
chối kết luận giám định mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm
hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự. Người giám định kết luận gian dối
thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự.
4. Người giám định
phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 42 của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố
tụng với tư cách là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên,
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh
án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án hoặc đã tham gia với tư cách là
người bào chữa, người làm chứng, người phiên dịch trong vụ án đó.
Việc thay đổi
người giám định do cơ quan trưng cầu quyết định.
Điều 61. Người phiên dịch
1. Người phiên
dịch do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án yêu cầu trong trường hợp có
người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt.
2. Người phiên
dịch phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án và phải dịch trung thực; không được tiết lộ bí mật điều tra; nếu dịch gian
dối thì người phiên dịch phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ
luật hình sự.
3. Người phiên
dịch phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 42 của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố
tụng với tư cách là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên,
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh
án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án hoặc đã tham gia với tư cách là
người bào chữa, người làm chứng, người giám định trong vụ án đó.
Việc thay đổi
người phiên dịch do cơ quan yêu cầu quyết định.
4. Những quy định
của Điều này cũng được áp dụng đối với người biết dấu hiệu của người câm và
người điếc.
Điều 62. Trách nhiệm giải thích và bảo
đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng
Cơ quan, người
tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này. Việc giải
thích phải được ghi vào biên bản.
Chương V
CHỨNG CỨ
Điều 63. Những vấn đề phải chứng minh
trong vụ án hình sự
Khi điều tra, truy
tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải
chứng minh:
1. Có hành vi phạm
tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi
phạm tội;
2. Ai là người
thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng
lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
3. Những tình tiết
tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những
đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4. Tính chất và
mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Điều 64. Chứng cứ
1. Chứng cứ là
những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định
mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay
không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình
tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
2. Chứng cứ được
xác định bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của
người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo;
c) Kết luận giám
định;
d) Biên bản về
hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Điều 65. Thu thập chứng cứ
1. Để thu thập
chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có quyền triệu tập những
người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan
đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt
động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
2. Những người
tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra
tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
Điều 66. Đánh giá chứng cứ
1. Mỗi chứng cứ
phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án.
Việc xác định các chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án
hình sự.
2. Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy
đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan,
toàn diện và đầy đủ tất cả tình tiết của vụ án.
Điều 67. Lời khai của người làm chứng
1. Người làm chứng
trình bày những gì mà họ biết về vụ án, nhân thân của người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác và trả lời những
câu hỏi đặt ra.
2. Không được dùng
làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày, nếu họ không thể nói
rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Điều 68. Lời khai của người bị hại
1. Người bị hại
trình bày về những tình tiết của vụ án, quan hệ giữa họ với người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo và trả lời những câu hỏi đặt ra.
2. Không được dùng
làm chứng cứ những tình tiết do người bị hại trình bày, nếu họ không thể nói rõ
vì sao biết được tình tiết đó.
Điều 69. Lời khai của nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự
1. Nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự trình bày về những tình tiết liên quan đến việc bồi thường
thiệt hại do tội phạm gây ra.
2. Không được dùng
làm chứng cứ những tình tiết do nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trình bày, nếu
họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Điều 70. Lời khai của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
1. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày về những tình tiết trực tiếp liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
2. Không được dùng
làm chứng cứ những tình tiết do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Điều 71. Lời khai của người bị bắt, bị
tạm giữ
Người bị bắt, bị
tạm giữ trình bày về những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện
tội phạm.
Điều 72. Lời khai của bị can, bị cáo
1. Bị can, bị cáo
trình bày về những tình tiết của vụ án.
2. Lời nhận tội
của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng
cứ khác của vụ án.
Không được dùng
lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội.
Điều 73. Kết luận giám định
1. Người giám định
kết luận về vấn đề được yêu cầu giám định và phải chịu trách nhiệm cá nhân về
kết luận đó.
Kết luận giám định
phải được thể hiện bằng văn bản.
Nếu việc giám định
do một nhóm người giám định tiến hành thì tất cả các thành viên đều ký vào bản
kết luận chung. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi người ghi riêng ý
kiến kết luận của mình vào bản kết luận chung.
2. Trong trường
hợp cơ quan tiến hành tố tụng không đồng ý với kết luận giám định thì phải nêu
rõ lý do, nếu kết luận chưa rõ hoặc chưa đầy đủ thì quyết định giám định bổ
sung hoặc giám định lại theo thủ tục chung.
Điều 74. Vật chứng
Vật chứng là vật
được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là
đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội
phạm và người phạm tội.
Điều 75. Thu thập và bảo quản vật chứng
1. Vật chứng cần
được thu thập kịp thời, đầy đủ, được mô tả đúng thực trạng vào biên bản và đưa
vào hồ sơ vụ án.
Trong trường hợp
vật chứng không thể đưa vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh và có thể ghi hình để
đưa vào hồ sơ vụ án. Vật chứng phải được niêm phong, bảo quản.
2. Vật chứng phải
được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn và hư hỏng. Việc niêm
phong, bảo quản vật chứng được thực hiện như sau:
a) Đối với vật
chứng cần được niêm phong thì phải niêm phong ngay sau khi thu thập. Việc niêm
phong, mở niêm phong phải được tiến hành theo quy định của pháp luật và phải
lập biên bản để đưa vào hồ sơ vụ án;
b) Vật chứng là
tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất
phóng xạ phải được giám định ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo
quản tại ngân hàng hoặc các cơ quan chuyên trách khác;
c) Đối với vật
chứng không thể đưa về cơ quan tiến hành tố tụng để bảo quản thì cơ quan tiến
hành tố tụng giao vật chứng đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật,
tài sản hoặc người thân thích của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ
chức nơi có vật chứng bảo quản;
d) Đối với vật
chứng là hàng hoá mau hỏng hoặc khó bảo quản nếu không thuộc trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 76 của Bộ luật này thì cơ quan có thẩm quyền quy định tại
khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định bán
theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có
thẩm quyền tại kho bạc nhà nước để quản lý;
đ) Đối với vật
chứng đưa về cơ quan tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan Công an có trách
nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi hành án
có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án.
3. Người có trách
nhiệm bảo quản vật chứng mà để mất mát, hư hỏng, phá huỷ niêm phong, tiêu dùng,
chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc hủy hoại vật chứng của vụ án, thì tuỳ
theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định tại Điều 310 của Bộ luật hình sự; trong trường hợp thêm,
bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng vật chứng của vụ án nhằm làm sai lệch
hồ sơ vụ án thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 300 của Bộ
luật hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp
luật.
Điều 76. Xử lý vật chứng
1. Việc xử lý vật
chứng do Cơ quan điều tra quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều
tra; do Viện kiểm sát quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố;
do Toà án hoặc Hội đồng xét xử quyết định ở giai đoạn xét xử. Việc thi hành các
quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản.
2. Vật chứng được
xử lý như sau:
a) Vật chứng là
công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành thì bị tịch thu, sung quỹ Nhà
nước hoặc tiêu huỷ;
b) Vật chứng là
những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm
tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội thì trả lại cho chủ
sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; trong trường hợp không xác định được chủ sở
hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì sung quỹ Nhà nước;
c) Vật chứng là
tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ Nhà nước;
d) Vật chứng là
hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo quy định của pháp
luật;
đ) Vật chứng không
có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu huỷ.
3. Trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này
có quyền quyết định trả lại những vật chứng quy định tại điểm b khoản 2 Điều
này cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu xét thấy không ảnh hưởng
đến việc xử lý vụ án.
4. Trong trường
hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì giải quyết theo thủ tục
tố tụng dân sự.
Điều 77. Biên bản về hoạt động điều tra
và xét xử
Những tình tiết
được ghi trong các biên bản bắt người, khám xét, khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, biên bản phiên toà và
biên bản về các hoạt động tố tụng khác tiến hành theo quy định của Bộ luật này
có thể được coi là chứng cứ.
Điều 78. Các tài liệu, đồ vật khác trong
vụ án
Những tình tiết có
liên quan đến vụ án được ghi trong các tài liệu cũng như đồ vật do cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp có thể được coi là chứng cứ.
Trong trường hợp
những tài liệu, đồ vật này có những dấu hiệu quy định tại Điều 74 của Bộ luật
này thì được coi là vật chứng.
Chương VI
NHỮNG BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN
Điều 79. Các biện pháp và căn cứ áp dụng
biện pháp ngăn chặn
Để kịp thời ngăn
chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo
đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm
quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có
thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm.
Điều 80. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
1. Những người sau
đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
a) Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó
Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
c) Thẩm phán giữ
chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội
đồng xét xử;
d) Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được
Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
2. Lệnh bắt phải
ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của
người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng
dấu.
Người thi hành
lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải
lập biên bản về việc bắt.
Khi tiến hành bắt
người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn
và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại
nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc
chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại
diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
3. Không được bắt
người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt
người đang bị truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này.
Điều 81. Bắt người trong trường hợp khẩn
cấp
1. Trong những
trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp:
a) Khi có căn cứ
để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị
hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận
đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người
đó trốn;
c) Khi thấy có dấu
vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và
xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
2. Những người sau
đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
a) Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b) Người chỉ huy
đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên
phòng ở hải đảo và biên giới;
c) Người chỉ huy
tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
3. Nội dung lệnh
bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng
quy định tại khoản 2 Điều 80 của Bộ luật này.
4. Trong mọi
trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp
bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê
chuẩn.
Viện kiểm sát phải
kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định tại Điều này. Trong trường hợp
cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem
xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong thời hạn 12
giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc
bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không
phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh
bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
Điều 82. Bắt người phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã
1. Đối với người
đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện
hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có
quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân
nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến
Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
2. Khi bắt người
phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước
vũ khí, hung khí của người bị bắt.
Điều 83. Những việc cần làm ngay sau khi
bắt hoặc nhận người bị bắt
1. Sau khi bắt
hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, Cơ
quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết
định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
2. Đối với người
bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải
thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt.
Sau khi nhận người
bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong
trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay
người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải
ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy
nã biết.
Sau khi nhận được
thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải
ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê
chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam,
Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người đó đến trại
tạm giam nơi gần nhất.
Điều 84. Biên bản về việc bắt người
1. Người thi hành
lệnh bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản.
Biên bản phải ghi
rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm,
tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm
giữ và những khiếu nại của người bị bắt.
Biên bản phải được
đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi
hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý
kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản
và ký tên.
Việc tạm giữ đồ
vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật
này.
2. Khi giao và
nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản.
Ngoài những điểm
đã quy định tại khoản 1 Điều này, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn
giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng
sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận.
Điều 85. Thông báo về việc bắt
Người ra lệnh bắt,
Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị
bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú
hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó
không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông
báo ngay.
Điều 86. Tạm giữ
1. Tạm giữ có thể
được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định
truy nã.
2. Những người có
quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ
huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ.
Người thi hành
quyết định tạm giữ phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy
định tại Điều 48 của Bộ luật này.
3. Trong thời hạn
12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho
Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không
cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra
quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Quyết định tạm giữ
phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm
giữ một bản.
Điều 87. Thời hạn tạm giữ
1. Thời hạn tạm
giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
2. Trong trường
hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không
quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia
hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ
đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ
khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ,
Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
3. Trong khi tạm
giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị
tạm giữ.
4. Thời gian tạm
giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày
tạm giam.
Điều 88. Tạm giam
1. Tạm giam có thể
được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo
phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định
hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản
trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
2. Đối với bị can,
bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là
người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà
áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo
bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo
được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản
trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo
phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam
đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
3. Những người có
thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh
tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều
80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi
hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét
phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra
quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn
trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
4. Cơ quan ra lệnh
tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia
đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ
chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.
Điều 89. Chế độ tạm giữ, tạm giam
Chế độ tạm giữ,
tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù.
Nơi tạm giữ, tạm
giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được
thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Điều 90. Việc chăm nom người thân thích
và bảo quản tài sản của người bị tạm giữ, tạm giam
1. Khi người bị
tạm giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích
là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc, thì cơ quan ra quyết định
tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom. Trong
trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra
quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại
chăm nom.
2. Trong trường
hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông
nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp dụng những
biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng.
3. Cơ quan ra
quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam thông báo cho người bị tạm giữ, tạm giam biết
những biện pháp đã được áp dụng.
Điều 91. Cấm đi khỏi nơi cư trú
1. Cấm đi khỏi nơi
cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi
cư trú rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án.
2. Những người quy
định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ
phiên toà có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị can, bị cáo
phải làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi cư trú của mình, phải có mặt đúng thời
gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập.
Người ra lệnh cấm
đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền
xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú và giao bị can, bị cáo cho chính
quyền xã, phường, thị trấn để quản lý, theo dõi họ. Trong trường hợp bị can, bị
cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng
ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép
của cơ quan đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đó.
3. Bị can, bị cáo
vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Điều 92. Bảo lĩnh
1. Bảo lĩnh là
biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
2. Cá nhân có thể
nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp
này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị
cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức
phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự
có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được
thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
3. Những người quy
định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ
phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.
4. Cá nhân nhận
bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa
phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với
tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ
chức.
5. Cá nhân hoặc tổ
chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa
vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị
áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Điều 93. Đặt tiền hoặc tài sản có giá
trị để bảo đảm
1. Đặt tiền hoặc
tài sản có giá trị để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm
giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án có thể quyết định cho họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập.
2. Những người quy
định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ
phiên toà có quyền ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm. Quyết định của những người quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ
luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
3. Cơ quan ra
quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm phải lập biên
bản ghi rõ số lượng tiền, tên và tình trạng tài sản đã được đặt và giao cho bị
can hoặc bị cáo một bản.
4. Trong trường hợp
bị can, bị cáo đã được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án triệu tập mà
vắng mặt không có lý do chính đáng thì số tiền hoặc tài sản đã đặt sẽ bị sung
quỹ Nhà nước và trong trường hợp này bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác.
Trong trường hợp
bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì cơ quan tiến hành
tố tụng có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền hoặc tài sản đã đặt.
5. Trình tự, thủ
tục, mức tiền hoặc giá trị tài sản phải đặt để bảo đảm, việc tạm giữ, hoàn trả,
không hoàn trả số tiền hoặc tài sản đã đặt được thực hiện theo quy định của
pháp luật.
Điều 94. Huỷ bỏ hoặc thay thế biện pháp
ngăn chặn
1. Khi vụ án bị
đình chỉ thì mọi biện pháp ngăn chặn đã áp dụng đều phải được huỷ bỏ.
2. Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần
thiết hoặc có thể thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác.
Đối với những biện
pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn thì việc huỷ bỏ hoặc thay thế phải do
Viện kiểm sát quyết định.
Chương VII
BIÊN BẢN,
THỜI HẠN, ÁN PHÍ
Điều 95. Biên bản
1. Khi tiến hành
các hoạt động tố tụng, bắt buộc phải lập biên bản theo mẫu quy định thống nhất.
Trong biên bản ghi
rõ địa điểm, ngày, giờ, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu và thời
gian kết thúc, nội dung của hoạt động tố tụng, những người tiến hành, tham gia
hoặc có liên quan đến hoạt động tố tụng, những khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị
của họ.
2. Biên bản phiên
toà phải có chữ ký của chủ toạ phiên toà và Thư ký Tòa án. Biên bản các hoạt
động tố tụng khác phải có chữ ký của những người mà Bộ luật này quy định trong
từng trường hợp. Những điểm sửa chữa trong biên bản cũng phải được xác nhận
bằng chữ ký của họ.
Điều 96. Tính thời hạn
1. Thời hạn mà Bộ
luật này quy định được tính theo giờ, ngày và tháng. Đêm được tính từ 22 giờ
đến 6 giờ sáng ngày hôm sau.
Khi tính thời hạn
theo ngày thì thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ ngày cuối cùng của thời hạn. Khi
tính thời hạn theo tháng thì thời hạn hết vào ngày trùng của tháng sau; nếu
tháng đó không có ngày trùng, thì thời hạn hết vào ngày cuối cùng của tháng đó;
nếu thời hạn hết vào ngày nghỉ thì ngày làm việc đầu tiên tiếp theo được tính
là ngày cuối cùng của thời hạn.
Khi tính thời hạn
tạm giữ, tạm giam thì thời hạn hết vào ngày kết thúc thời hạn được ghi trong lệnh.
Nếu thời hạn được tính bằng tháng thì một tháng được tính là ba mươi ngày.
2. Trong trường
hợp có đơn hoặc giấy tờ được gửi qua bưu điện thì thời hạn được tính theo dấu
bưu điện nơi gửi. Nếu có đơn hoặc giấy tờ được gửi qua Ban giám thị trại tạm
giam, trại giam thì thời hạn được tính từ ngày Ban giám thị trại tạm giam, trại
giam nhận đơn hoặc giấy tờ đó.
Điều 97. Phục hồi thời hạn
Nếu quá hạn mà có
lý do chính đáng thì cơ quan tiến hành tố tụng phải phục hồi lại thời hạn.
Điều 98. Án phí
án phí là tất cả
chi phí để tiến hành tố tụng hình sự bao gồm tiền thù lao cho người làm chứng,
người bị hại, người giám định, người phiên dịch, người bào chữa trong trường
hợp cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định và các khoản chi phí khác theo quy định
của pháp luật; án phí dân sự trong vụ án hình sự.
Điều 99. Trách nhiệm chịu án phí
1. án phí do người
bị kết án hoặc Nhà nước chịu theo quy định của pháp luật.
2. Người bị kết án
phải trả án phí theo quyết định của Toà án.
3. Trong trường
hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, nếu Toà án tuyên bố bị
cáo không có tội hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy định tại khoản 2 Điều 105 của
Bộ luật này thì người bị hại phải trả án phí.
Phần thứ hai
KHỞI TỐ,
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ QUYẾT ĐỊNH VIỆC TRUY TỐ
Chương VIII
KHỞI TỐ VỤ
ÁN HÌNH SỰ
Điều 100. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Chỉ được khởi tố
vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội
phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
1. Tố giác của
công dân;
2. Tin báo của cơ
quan, tổ chức;
3. Tin báo trên
các phương tiện thông tin đại chúng;
4. Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng
Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu
của tội phạm;
5. Người phạm tội
tự thú.
Điều 101. Tố giác và tin báo về tội phạm
Công dân có thể tố
giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan
khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập
biên bản và có chữ ký của người tố giác.
Cơ quan, tổ chức
khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm
cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.
Điều 102. Người phạm tội tự thú
Khi người phạm tội
đến tự thú, cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ họ tên, tuổi,
nghề nghiệp, chỗ ở và những lời khai của người tự thú. Cơ quan, tổ chức tiếp
nhận người phạm tội tự thú có trách nhiệm báo ngay cho Cơ quan điều tra hoặc
Viện kiểm sát.
Điều 103. Nhiệm vụ giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
1. Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội
phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước
chuyển đến. Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận
cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
2. Trong thời hạn
hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác
minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án
hình sự.
Trong trường hợp
sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình
tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để
giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng.
3. Kết quả giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước
phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ chức đã
báo tin hoặc người đã tố giác tội phạm biết.
Cơ quan điều tra
phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm.
4. Viện kiểm sát
có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Điều 104. Quyết định khởi tố vụ án hình
sự
1. Khi xác định có
dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự. Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng
Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định
khởi tố vụ án trong những trường hợp quy định tại Điều 111 của Bộ luật này.
Viện kiểm sát ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết
định không khởi tố vụ án của các cơ quan quy định tại khoản này và trong trường
hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.
Hội đồng xét xử ra
quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua
việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới
cần phải điều tra.
2. Quyết định khởi
tố vụ án hình sự phải ghi rõ thời gian, căn cứ khởi tố, điều khoản của Bộ luật
hình sự được áp dụng và họ tên, chức vụ người ra quyết định.
3. Trong thời hạn
24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát phải gửi
quyết định đó đến Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra; quyết định khởi tố
kèm theo tài liệu liên quan đến việc khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều
tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra phải được gửi tới Viện kiểm sát để kiểm sát việc khởi
tố; quyết định khởi tố của Hội đồng xét xử phải được gửi tới Viện kiểm sát để
xem xét, quyết định việc điều tra; yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử được gửi
cho Viện kiểm sát để xem xét, quyết định việc khởi tố.
Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại
1. Những vụ án về
các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111,
113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu
của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
2. Trong trường
hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ
án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp
có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý
muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu
cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố
tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã
rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu
do bị ép buộc, cưỡng bức.
Điều 106. Thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự
1. Khi có căn cứ
xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có
tội phạm khác thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc
bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự.
2. Trong trường
hợp Cơ quan điều tra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố vụ án, Cơ quan điều tra phải gửi cho Viện kiểm sát để
kiểm sát việc khởi tố.
Trong trường hợp
Viện kiểm sát quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự
thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành
điều tra.
Điều 107. Những căn cứ không được khởi
tố vụ án hình sự
Không được khởi tố
vụ án hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Không có sự
việc phạm tội;
2. Hành vi không
cấu thành tội phạm;
3. Người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4. Người mà hành
vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp
luật;
5. Đã hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
6. Tội phạm đã
được đại xá;
7. Người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người
khác.
Điều 108. Quyết định không khởi tố vụ án
hình sự
1. Khi có một
trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của Bộ luật này thì người có quyền
khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì
phải ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố và thông báo cho cơ quan, tổ chức,
cá nhân đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm biết rõ lý do; nếu xét cần xử lý
bằng biện pháp khác thì chuyển hồ sơ cho cơ quan, tổ chức hữu quan giải quyết.
Quyết định không
khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và
các tài liệu liên quan phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn
24 giờ, kể từ khi ra quyết định.
2. Cơ quan, tổ
chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm có quyền khiếu nại quyết định
không khởi tố vụ án. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết khiếu nại theo quy định
tại Chương XXV của Bộ luật này.
Điều 109. Quyền hạn và trách nhiệm của
Viện kiểm sát trong việc khởi tố vụ án hình sự
1. Viện kiểm sát
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố
vụ án hình sự, bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều phải được khởi tố, việc
khởi tố vụ án có căn cứ và hợp pháp.
2. Trong trường
hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng,
Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
không có căn cứ thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố đó;
nếu quyết định không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan đó không có căn cứ,
thì Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ án.
3. Trong trường
hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử không có căn cứ thì
Viện kiểm sát kháng nghị lên Tòa án cấp trên.
Chương IX
NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG VỀ ĐIỀU TRA
Điều 110. Thẩm quyền điều tra
1. Cơ quan điều
tra trong Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm
thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ
quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Cơ quan điều
tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của
Toà án quân sự.
3. Cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt
động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.
4. Cơ quan điều
tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận
của mình. Trong trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì
việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi
bị can cư trú hoặc bị bắt.
Cơ quan điều tra
cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra những vụ án hình sự về
những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án
quân sự khu vực; Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân
khu điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của
Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp
điều tra. Cơ quan điều tra cấp trung ương điều tra những vụ án hình sự về những
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu nhưng xét thấy cần
trực tiếp điều tra.
5. Tổ chức bộ máy,
thẩm quyền cụ thể của các Cơ quan điều tra do ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định.
Điều 111. Quyền hạn điều tra của Bộ đội
biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra
1. Khi phát hiện
những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực
quản lý của mình thì Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát
biển có thẩm quyền:
a) Đối với tội
phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch
người phạm tội rõ ràng, thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến
hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn
hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án;
b) Đối với tội
phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít
nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành những
hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền
trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
2. Trong Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân, ngoài các Cơ quan điều tra quy định tại Điều 110
của Bộ luật này, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội
phạm, thì có quyền khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và
chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
3. Khi tiến hành
hoạt động điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát
biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong phạm vi thẩm quyền tố tụng
của mình phải thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục tố tụng đối với hoạt
động điều tra theo quy định của Bộ luật này. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các cơ quan này.
4. Nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể trong hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,
lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân
dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do Uỷ ban thường vụ
Quốc hội quy định.
Điều 112. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
1. Khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết
định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này;
2. Đề ra yêu cầu
điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần
thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật
này;
3. Yêu cầu Thủ
trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của Bộ luật này;
nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;
4. Quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp
ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định
của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không phê
chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do;
5. Huỷ bỏ các
quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ
quan điều tra truy nã bị can;
6. Quyết định việc
truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Điều 113. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát khi kiểm sát điều tra
Khi thực hiện công
tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc
khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan
điều tra;
2. Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng;
3. Giải quyết các
tranh chấp về thẩm quyền điều tra;
4. Yêu cầu Cơ quan
điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Cơ
quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra
viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi
phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra;
5. Kiến nghị với
cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm
pháp luật.
Điều 114. Trách nhiệm của Cơ quan điều
tra trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát
Cơ quan điều tra
có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát. Đối với
những yêu cầu và quyết định quy định tại các điểm 4, 5 và 6 Điều 112 của Bộ
luật này, nếu không nhất trí, Cơ quan điều tra vẫn phải chấp hành, nhưng có
quyền kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn hai mươi
ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho cơ
quan đã kiến nghị.
Điều 115. Trách nhiệm thực hiện quyết
định và yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
Những quyết định,
yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự phải được cơ quan, tổ chức và công dân nghiêm chỉnh chấp hành.
Điều 116. Chuyển vụ án để điều tra theo
thẩm quyền
Trong trường hợp
vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra của mình, Cơ quan điều tra phải đề nghị
Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm
quyền để tiếp tục điều tra; trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề
nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp có trách nhiệm ra quyết định chuyển
vụ án.
Việc chuyển vụ án
ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân
khu do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu
quyết định.
Điều 117. Nhập hoặc tách vụ án hình sự
để tiến hành điều tra
1. Cơ quan điều
tra có thể nhập để tiến hành điều tra trong cùng một vụ án những trường hợp bị
can phạm nhiều tội, nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm hoặc cùng với bị
can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm quy
định tại Điều 313 và Điều 314 của Bộ luật hình sự.
2. Cơ quan điều
tra chỉ được tách vụ án trong những trường hợp thật cần thiết khi không thể
hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó
không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.
3. Quyết định nhập
hoặc tách vụ án hình sự phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn
24 giờ, kể từ khi ra quyết định.
Điều 118. Ủy thác điều tra
Khi cần thiết, Cơ
quan điều tra có thể ủy thác cho Cơ quan điều tra khác tiến hành một số hoạt
động điều tra. Quyết định ủy thác điều tra phải ghi rõ yêu cầu cụ thể. Cơ quan
điều tra được ủy thác có trách nhiệm thực hiện đầy đủ những việc được ủy thác
theo thời hạn mà Cơ quan điều tra ủy thác yêu cầu.
Điều 119. Thời hạn điều tra
1. Thời hạn điều
tra vụ án hình sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không
quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ
án cho đến khi kết thúc điều tra.
2. Trong trường
hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười
ngày trước khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện
kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc gia hạn điều
tra được quy định như sau:
a) Đối với tội
phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng;
b) Đối với tội
phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá
ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng;
c) Đối với tội
phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá
bốn tháng;
d) Đối với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không
quá bốn tháng.
3. Thẩm quyền gia
hạn điều tra của Viện kiểm sát được quy định như sau:
a) Đối với tội
phạm ít nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân
sự khu vực gia hạn điều tra. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở
cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân
sự cấp quân khu gia hạn điều tra;
b) Đối với tội
phạm nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự
khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án
được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần
thứ hai;
c) Đối với tội
phạm rất nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân
sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện
kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ hai. Trong trường hợp vụ
án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và
lần thứ hai;
d) Đối với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát
quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai; Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương gia hạn điều tra lần thứ
ba.
4. Trong trường
hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn điều tra
thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự
trung ương.
5. Đối với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết, nhưng do tính
chất rất phức tạp của vụ án mà chưa thể kết thúc việc điều tra thì Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá bốn tháng.
Đối với tội xâm
phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền
gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng.
6. Khi đã hết thời
hạn gia hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì
Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra.
Điều 120. Thời hạn tạm giam để điều tra
1. Thời hạn tạm
giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng,
không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với
tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Trong trường
hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho
việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì
chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn
bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Việc gia hạn tạm
giam được quy định như sau:
a) Đối với tội
phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng;
b) Đối với tội
phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá
hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;
c) Đối với tội
phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không
quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;
d) Đối với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không
quá bốn tháng.
3. Thẩm quyền gia
hạn tạm giam của Viện kiểm sát được quy định như sau:
a) Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối
với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm
nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lý
để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện
kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít
nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng, tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Trong trường
hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản này đã hết mà vẫn
chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp tạm giam thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu
vực có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng. Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn
tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
4. Trong trường
hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn tạm giam
thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự
trung ương.
5. Đối với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ
hai quy định tại điểm b khoản 3 Điều này đã hết và vụ án có nhiều tình tiết rất
phức tạp mà không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn tạm giam lần thứ ba.
Trong trường hợp
cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng.
6. Trong khi tạm
giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra
phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người
bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi đã hết thời
hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam
hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Điều 121. Thời hạn phục hồi điều tra,
điều tra bổ sung, điều tra lại
1. Trong trường
hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 165 của Bộ luật này thì thời hạn điều
tra tiếp không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết
thúc điều tra.
Trong trường hợp
cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày
trước khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm
sát gia hạn điều tra. Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội
phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần
không quá hai tháng;
b) Đối với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá ba tháng.
Thẩm quyền gia hạn
điều tra đối với từng loại tội phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 119 của Bộ
luật này.
2. Trong trường
hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ
sung không quá hai tháng; nếu do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời
hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ được
trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung
tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra.
3. Trong trường
hợp vụ án được trả lại để điều tra lại thì thời hạn điều tra và gia hạn điều
tra theo thủ tục chung quy định tại Điều 119 của Bộ luật này.
Thời hạn điều tra
được tính từ khi Cơ quan điều tra nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.
4. Khi phục hồi
điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng,
thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp
có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam
để phục hồi điều tra, để điều tra bổ sung không được quá thời hạn phục hồi điều
tra, điều tra bổ sung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Thời hạn tạm giam
và gia hạn tạm giam trong trường hợp vụ án được điều tra lại theo thủ tục chung
quy định tại Điều 120 của Bộ luật này.
Điều 122. Giải quyết các yêu cầu của
người tham gia tố tụng
Khi người tham gia
tố tụng có yêu cầu về những vấn đề liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu của họ và
báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Cơ quan
điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do.
Nếu không đồng ý
với kết quả giải quyết của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát thì người tham
gia tố tụng có quyền khiếu nại. Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại được
thực hiện theo quy định tại Chương XXV của Bộ luật này.
Điều 123. Sự tham dự của người chứng
kiến
Người chứng kiến
được mời tham dự hoạt động điều tra trong những trường hợp do Bộ luật này quy
định.
Người chứng kiến
có trách nhiệm xác nhận nội dung và kết quả công việc mà Điều tra viên đã tiến
hành trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến cá nhân. ý kiến này được ghi
vào biên bản.
Điều 124. Không được tiết lộ bí mật điều
tra
Trong trường hợp
cần giữ bí mật điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải báo trước cho người
tham gia tố tụng, người chứng kiến không được tiết lộ bí mật điều tra. Việc báo
này phải được ghi vào biên bản.
Điều tra viên,
Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng, người chứng kiến tiết lộ bí mật điều tra
thì tùy trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự theo các điều 263, 264, 286,
287, 327 và 328 của Bộ luật hình sự.
Điều 125. Biên bản điều tra
1. Khi tiến hành
điều tra phải lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
Điều tra viên lập
biên bản phải đọc lại biên bản cho người tham gia tố tụng nghe, giải thích cho
họ biết quyền được bổ sung và nhận xét về biên bản. Nhận xét đó được ghi vào
biên bản. Người tham gia tố tụng và Điều tra viên cùng ký tên vào biên bản.
2. Trong trường
hợp người tham gia tố tụng từ chối ký vào biên bản, thì việc đó phải được ghi
vào biên bản và nêu rõ lý do.
3. Nếu người tham
gia tố tụng vì nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do khác mà không
thể ký vào biên bản thì phải ghi rõ lý do; Điều tra viên và người chứng kiến
cùng xác nhận.
Người không biết
chữ thì điểm chỉ vào biên bản.
Chương X
KHỞI TỐ BỊ
CAN VÀ HỎI CUNG BỊ CAN
Điều 126. Khởi tố bị can
1. Khi có đủ căn
cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra
quyết định khởi tố bị can.
2. Quyết định khởi
tố bị can ghi rõ: thời gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra
quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình của
bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự;
thời gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm.
Nếu bị can bị khởi
tố về nhiều tội khác nhau thì trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ từng
tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng.
3. Sau khi khởi tố
bị can, Cơ quan điều tra phải chụp ảnh, lập danh chỉ bản của bị can và đưa vào
hồ sơ vụ án.
4. Trong thời hạn
24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết
định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can đó cho Viện kiểm sát
cùng cấp để xét phê chuẩn việc khởi tố. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho Cơ quan điều tra.
5. Trong trường
hợp phát hiện có người đã thực hiện hành vi phạm tội chưa bị khởi tố thì Viện
kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can.
Sau khi nhận hồ sơ
và kết luận điều tra mà Viện kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành
vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố
bị can. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Viện
kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
6. Cơ quan điều
tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can của mình hoặc quyết định khởi tố
bị can của Viện kiểm sát và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can quy định tại
Điều 49 của Bộ luật này. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn hoặc quyết định
huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao
ngay cho người đã bị khởi tố. Việc giao nhận các quyết định nói trên phải lập
biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
Điều 127. Thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can
1. Khi tiến hành
điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội
đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.
2. Trong thời hạn
24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị
can, Cơ quan điều tra phải gửi các quyết định này và tài liệu có liên quan đến
việc thay đổi hoặc bổ sung đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.
Trong thời hạn 24
giờ, kể từ khi Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều
tra.
3. Cơ quan điều
tra phải giao ngay quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can
của mình hoặc quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của
Viện kiểm sát và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can quy định tại Điều 49 của
Bộ luật này. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát,
Cơ quan điều tra phải giao ngay cho người đã bị khởi tố. Việc giao nhận các
quyết định nói trên phải lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật
này.
Điều 128. Tạm đình chỉ chức vụ bị can
đang đảm nhiệm
Khi xét thấy việc
bị can tiếp tục giữ chức vụ gây khó khăn cho việc điều tra thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản
lý bị can tạm đình chỉ chức vụ của bị can. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày
nhận được kiến nghị, cơ quan, tổ chức này phải trả lời bằng văn bản cho Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát đã kiến nghị biết.
Điều 129. Triệu tập bị can
1. Khi triệu tập
bị can, Điều tra viên phải gửi giấy triệu tập. Giấy triệu tập bị can ghi rõ họ
tên, chỗ ở của bị can; ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm có mặt, gặp ai và trách
nhiệm về việc vắng mặt không có lý do chính đáng.
2. Giấy triệu tập
bị can được gửi cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can cư trú hoặc cho
cơ quan, tổ chức nơi bị can làm việc. Cơ quan, tổ chức nhận được giấy triệu tập
có trách nhiệm chuyển ngay giấy triệu tập cho bị can.
Khi nhận giấy
triệu tập, bị can phải ký nhận, có ghi rõ ngày, giờ nhận. Người chuyển giấy
triệu tập phải chuyển phần giấy triệu tập có ký nhận của bị can cho cơ quan đã
triệu tập bị can; nếu bị can không ký nhận thì phải lập biên bản về việc đó và
gửi cho cơ quan triệu tập bị can; nếu bị can vắng mặt thì có thể giao giấy
triệu tập cho một người đã thành niên trong gia đình để ký xác nhận và chuyển
cho bị can. Bị can đang bị tạm giam được triệu tập thông qua Ban giám thị trại
tạm giam.
3. Bị can phải có
mặt theo giấy triệu tập. Trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng
hoặc có biểu hiện trốn tránh thì Điều tra viên có thể ra quyết định áp giải.
4. Trong trường
hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể triệu tập bị can. Việc triệu tập bị can
được tiến hành theo quy định tại Điều này.
Điều 130. Áp giải bị can tại ngoại
1. Quyết định áp
giải bị can ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra
quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị can; tội danh mà
bị can đã bị khởi tố; thời gian, địa điểm bị can phải có mặt.
2. Người thi hành
quyết định áp giải phải đọc, giải thích quyết định và lập biên bản về việc áp
giải theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
3. Không được áp
giải bị can vào ban đêm.
Điều 131. Hỏi cung bị can
1. Việc hỏi cung
bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị
can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người
đó.
Trước khi hỏi
cung, Điều tra viên phải đọc quyết định khởi tố bị can và giải thích cho bị can
biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật này. Việc này
phải được ghi vào biên bản.
Nếu vụ án có nhiều
bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với nhau. Có thể cho bị
can tự viết lời khai của mình.
2. Không hỏi cung
vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được, nhưng phải ghi rõ lý do
vào biên bản.
3. Trong trường
hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể hỏi cung bị can. Việc hỏi cung bị can được
tiến hành theo quy định tại Điều này.
4. Điều tra viên
hoặc Kiểm sát viên bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu
trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 299 hoặc Điều 298 của Bộ luật hình
sự.
Điều 132. Biên bản hỏi cung bị can
1. Biên bản hỏi
cung bị can phải được lập theo quy định tại Điều 95 và Điều 125 của Bộ luật
này.
Mỗi lần hỏi cung
đều phải lập biên bản. Biên bản phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, các
câu hỏi và câu trả lời. Nghiêm cấm Điều tra viên tự mình thêm, bớt hoặc sửa
chữa lời khai của bị can.
2. Sau khi hỏi
cung, Điều tra viên đọc lại biên bản cho bị can nghe hoặc để bị can tự đọc.
Trong trường hợp có bổ sung và sửa chữa biên bản thì bị can và Điều tra viên
cùng ký xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can ký vào từng trang của
biên bản. Trong trường hợp bị can tự viết lời khai thì Điều tra viên và bị can
cùng ký xác nhận tờ khai đó.
Nếu việc hỏi cung
được ghi âm thì sau khi hỏi cung, phải phát lại để bị can và Điều tra viên cùng
nghe. Biên bản phải ghi lại nội dung việc hỏi cung, bị can và Điều tra viên
cùng ký xác nhận.
Trong trường hợp
hỏi cung bị can có người phiên dịch thì Điều tra viên phải giải thích quyền và
nghĩa vụ của người phiên dịch, đồng thời giải thích cho bị can biết được quyền
yêu cầu thay đổi người phiên dịch. Người phiên dịch và bị can cùng ký vào từng
trang của biên bản hỏi cung.
3. Khi hỏi cung có
mặt người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị can thì Điều tra viên phải
giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi hỏi cung
bị can. Bị can, người bào chữa, người đại diện hợp pháp cùng ký vào biên bản
hỏi cung.
Trong trường hợp
người bào chữa được hỏi bị can thì trong biên bản phải ghi đầy đủ câu hỏi của
người bào chữa và trả lời của bị can.
4. Trong trường
hợp Kiểm sát viên hỏi cung bị can thì phải thực hiện theo quy định của Điều
này.
Chương XI
LẤY LỜI KHAI
NGƯỜI LÀM CHỨNG, NGƯỜI BỊ HẠI, NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ, BỊ ĐƠN DÂN SỰ, NGƯỜI CÓ QUYỀN
LỢI, NGHĨA VỤ LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN. ĐỐI CHẤT VÀ NHẬN DẠNG
Điều 133. Triệu tập người làm chứng
1. Khi triệu tập
người làm chứng, Điều tra viên phải gửi giấy triệu tập. Giấy triệu tập người
làm chứng phải ghi rõ họ tên, chỗ ở của người làm chứng, ngày, giờ, tháng, năm
và địa điểm có mặt; gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không có lý do chính
đáng.
2. Giấy triệu tập
được giao trực tiếp cho người làm chứng hoặc thông qua chính quyền xã, phường,
thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng cư trú hoặc làm việc. Các cơ
quan, tổ chức đó có trách nhiệm tạo điều kiện cho người làm chứng thực hiện
nghĩa vụ.
Trong mọi trường
hợp, việc giao giấy triệu tập phải được ký nhận.
3. Giấy triệu tập
người làm chứng chưa đủ 16 tuổi được giao cho cha, mẹ hoặc người đại diện hợp
pháp khác của họ.
4. Trong trường
hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể triệu tập người làm chứng. Việc triệu tập
người làm chứng được thực hiện theo quy định tại Điều này.
Điều 134. Dẫn giải người làm chứng
1. Trong trường
hợp người làm chứng đã được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát triệu tập nhưng cố
ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc họ vắng mặt gây trở ngại cho
việc điều tra, truy tố thì cơ quan đã triệu tập người làm chứng có thể ra quyết
định dẫn giải.
2. Quyết định dẫn
giải người làm chứng ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ
người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người làm
chứng; thời gian, địa điểm người làm chứng phải có mặt.
3. Người thi hành
quyết định dẫn giải phải đọc, giải thích quyền và nghĩa vụ của người làm chứng
và lập biên bản về việc dẫn giải theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
4. Không được dẫn
giải người làm chứng vào ban đêm.
Điều 135. Lấy lời khai người làm chứng
1. Việc lấy lời
khai người làm chứng được tiến hành tại nơi tiến hành điều tra hoặc nơi cư trú,
nơi làm việc của người đó.
2. Nếu vụ án có
nhiều người làm chứng thì phải lấy lời khai riêng từng người và không để cho họ
tiếp xúc với nhau trong thời gian lấy lời khai.
3. Trước khi lấy
lời khai, Điều tra viên phải giải thích cho người làm chứng biết quyền và nghĩa
vụ của họ. Việc này phải được ghi vào biên bản.
4. Trước khi hỏi
về nội dung vụ án, Điều tra viên cần xác minh mối quan hệ giữa người làm chứng
với bị can, người bị hại và những tình tiết khác về nhân thân của người làm
chứng. Điều tra viên cần yêu cầu người làm chứng kể hoặc viết lại những gì mà
họ biết về vụ án, sau đó mới đặt câu hỏi. Không được đặt câu hỏi có tính chất
gợi ý.
5. Khi lấy lời
khai của người làm chứng dưới 16 tuổi phải mời cha mẹ hoặc người đại diện hợp
pháp khác hoặc thầy giáo, cô giáo của người đó tham dự.
6. Trong trường
hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể lấy lời khai người làm chứng. Việc lấy lời
khai người làm chứng được tiến hành theo quy định tại Điều này.
Điều 136. Biên bản ghi lời khai của
người làm chứng
Biên bản ghi lời
khai của người làm chứng phải được lập theo quy định tại các điều 95, 125 và
132 của Bộ luật này.
Điều 137. Triệu tập, lấy lời khai của
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án
Việc triệu tập,
lấy lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định tại các điều
133, 135 và 136 của Bộ luật này.
Điều 138. Đối chất
1. Trong trường
hợp có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì Điều tra viên
tiến hành đối chất.
2. Nếu có người
làm chứng hoặc người bị hại tham gia đối chất thì trước tiên Điều tra viên phải
giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố
tình khai báo gian dối. Việc này phải được ghi vào biên bản.
3. Khi bắt đầu đối
chất, Điều tra viên hỏi về mối quan hệ giữa những người tham gia đối chất, sau
đó hỏi họ về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Khi đã nghe những lời khai trong
đối chất, Điều tra viên có thể hỏi thêm từng người.
Điều tra viên cũng
có thể để cho những người tham gia đối chất hỏi lẫn nhau; câu hỏi và trả lời
của những người này phải được ghi vào biên bản.
Chỉ sau khi những
người tham gia đối chất đã khai xong mới được nhắc lại những lời khai lần trước
của họ.
4. Biên bản đối
chất phải lập theo quy định tại các điều 95, 125 và 132 của Bộ luật này.
5. Trong trường
hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể tiến hành đối chất. Việc đối chất được tiến
hành theo quy định tại Điều này.
Điều 139. Nhận dạng
1. Khi cần thiết,
Điều tra viên có thể mời người hoặc đưa vật, ảnh cho người làm chứng, người bị
hại hoặc bị can nhận dạng.
Điều tra viên phải
hỏi trước người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ
có thể nhận dạng được.
2. Số người, vật
hoặc ảnh đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba và về bề ngoài phải tương tự
giống nhau. Đối với việc nhận dạng tử thi thì không áp dụng nguyên tắc này.
Trong trường hợp
đặc biệt có thể cho xác nhận người qua tiếng nói.
3. Nếu người làm
chứng hay người bị hại là người nhận dạng thì trước khi tiến hành, Điều tra
viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai
báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc giải thích đó phải được ghi vào biên bản.
4. Trong khi tiến
hành nhận dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi có tính chất gợi ý. Sau
khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được
đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào
các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận người, vật hay ảnh đó.
Việc tiến hành
nhận dạng phải có mặt người chứng kiến.
5. Biên bản nhận
dạng phải được lập theo quy định tại các điều 95, 125 và 132 của Bộ luật này.
Trong biên bản cần ghi rõ nhân thân của người nhận dạng và của những người được
đưa ra để nhận dạng; những đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận dạng; các
lời khai báo, trình bày của người nhận dạng.
Chương XII
KHÁM
XÉT, THU GIỮ, TẠM GIỮ, KÊ BIÊN TÀI SẢN
Điều 140. Căn cứ khám người, chỗ ở, chỗ
làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
1. Việc khám
người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận
định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ,
phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu
khác có liên quan đến vụ án.
Việc khám chỗ ở,
chỗ làm việc, địa điểm cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy
nã.
2. Khi cần phải
thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm.
Điều 141. Thẩm quyền ra lệnh khám xét
1. Những người
được quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét
trong mọi trường hợp. Lệnh khám xét của những người được quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành.
2. Trong trường
hợp không thể trì hoãn, những người được quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ
luật này có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi khám xong,
người ra lệnh khám phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều 142. Khám người
1. Khi bắt đầu
khám người, phải đọc lệnh khám và đưa cho đương sự đọc lệnh khám đó; giải thích
cho đương sự và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ.
Người tiến hành
khám phải yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ
án, nếu đương sự từ chối thì tiến hành khám.
2. Khi khám người
thì nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến.
3. Có thể tiến
hành khám người mà không cần có lệnh trong trường hợp bắt người hoặc khi có căn
cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người đồ vật, tài
liệu cần thu giữ.
Điều 143. Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa
điểm
1. Việc khám chỗ
ở, chỗ làm việc, địa điểm được tiến hành theo quy định tại các điều 140, 141 và
142 của Bộ luật này.
2. Khi khám chỗ ở,
địa điểm phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình họ, có
đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến; trong
trường hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc
đi vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính
quyền và hai người láng giềng chứng kiến.
3. Không được khám
chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do
vào biên bản.
4. Khi khám chỗ
làm việc của một người thì phải có mặt người đó, trừ trường hợp không thể trì
hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Việc khám chỗ làm
việc phải có đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến.
5. Khi tiến hành
khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm những người có mặt không được tự ý rời khỏi
nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những người
khác cho đến khi khám xong.
Điều 144. Thu giữ thư tín, điện tín, bưu
kiện, bưu phẩm tại bưu điện
Khi cần thiết phải
thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện thì Cơ quan điều tra
ra lệnh thu giữ. Lệnh này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi
thi hành, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ lý do vào biên
bản và sau khi thu giữ phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
Người thi hành
lệnh phải thông báo cho người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan trước khi
tiến hành thu giữ. Người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan phải giúp đỡ người
thi hành lệnh thu giữ hoàn thành nhiệm vụ.
Khi thu giữ thư
tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, phải có đại diện của cơ quan bưu điện chứng
kiến và ký xác nhận vào biên bản.
Cơ quan ra lệnh
thu giữ phải thông báo cho người có thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị
thu giữ biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không
còn nữa, cơ quan ra lệnh thu giữ phải thông báo ngay.
Điều 145. Tạm giữ đồ vật, tài liệu khi
khám xét
Khi khám xét, Điều
tra viên được tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp
đến vụ án. Đối với đồ vật thuộc loại cấm tàng trữ, lưu hành thì phải thu giữ và
chuyển ngay cho cơ quan quản lý có thẩm quyền. Trong trường hợp cần thiết phải
niêm phong thì tiến hành trước mặt chủ đồ vật hoặc đại diện gia đình, đại diện
chính quyền và người chứng kiến.
Việc tạm giữ đồ
vật, tài liệu khi tiến hành khám xét phải được lập biên bản. Biên bản tạm giữ
được lập thành bốn bản: một bản giao cho người chủ đồ vật, tài liệu; một bản
đưa vào hồ sơ vụ án; một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản giao cho
cơ quan quản lý đồ vật, tài liệu bị tạm giữ.
Điều 146. Kê biên tài sản
1. Việc kê biên
tài sản chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định
có thể tịch thu tài sản hoặc phạt tiền cũng như đối với người phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Những người có
thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh kê
biên tài sản. Lệnh kê biên của những người được quy định tại điểm d khoản 1
Điều 80 của Bộ luật này phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp
trước khi thi hành.
2. Chỉ kê biên
phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu, phạt tiền hoặc bồi thường
thiệt hại.
Tài sản bị kê biên
được giao cho chủ tài sản hoặc người thân thích của họ bảo quản. Người được
giao bảo quản mà có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy
hoại tài sản bị kê biên thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 310 của Bộ
luật hình sự.
3. Khi tiến hành
kê biên tài sản, phải có mặt đương sự hoặc người đã thành niên trong gia đình,
đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến. Người
tiến hành kê biên phải lập biên bản, ghi rõ tên và tình trạng từng tài sản bị
kê biên. Biên bản phải lập theo quy định tại Điều 95 và Điều 125 của Bộ luật
này, đọc cho đương sự và những người có mặt nghe và cùng ký tên. Những khiếu
nại của đương sự được ghi vào biên bản, có chữ ký xác nhận của họ và của người
tiến hành kê biên.
Biên bản kê biên
được lập thành ba bản: một bản được giao ngay cho đương sự sau khi kê biên
xong; một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản đưa vào hồ sơ vụ án.
4. Khi xét thấy
việc kê biên không còn cần thiết thì người có thẩm quyền quy định tại khoản 1
Điều 80 của Bộ luật này phải kịp thời ra quyết định hủy bỏ lệnh kê biên.
Điều 147. Trách nhiệm bảo quản đồ vật,
tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị
niêm phong
Đồ vật, tài liệu,
thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị niêm phong
theo quy định tại các điều 75, 144 và 145 của Bộ luật này phải được bảo quản
nguyên vẹn.
Người được giao
bảo quản mà phá hủy niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu
hoặc hủy hoại tài sản được giao bảo quản thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo
Điều 310 của Bộ luật hình sự.
Điều 148. Biên bản khám xét, thu giữ,
tạm giữ đồ vật, tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
Khi tiến hành khám
xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
phải lập biên bản theo quy định tại Điều 95 và Điều 125 của Bộ luật này.
Điều 149. Trách nhiệm của người ra lệnh
và thi hành lệnh khám xét, kê biên tài sản, thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu,
thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
Người ra lệnh,
người thi hành lệnh khám xét, kê biên tài sản, thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài
liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm trái pháp luật thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chương XIII
KHÁM NGHIỆM
HIỆN TRƯỜNG, KHÁM NGHIỆM TỬ THI, XEM XÉT DẤU VẾT TRÊN THÂN THỂ, THỰC NGHIỆM
ĐIỀU TRA, GIÁM ĐỊNH
Điều 150. Khám nghiệm hiện trường
1. Điều tra viên
tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện dấu vết
của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án.
2. Khám nghiệm
hiện trường có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình sự. Trong mọi trường
hợp, trước khi tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên phải thông báo cho Viện
kiểm sát cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường. Khi khám nghiệm, phải có người chứng kiến; có thể để cho bị can,
người bị hại, người làm chứng và mời nhà chuyên môn tham dự việc khám nghiệm.
3. Khi khám nghiệm
hiện trường, Điều tra viên tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo
đạc, dựng mô hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật,
tài liệu có liên quan đến vụ án; ghi rõ kết quả xem xét vào biên bản khám
nghiệm hiện trường.
Trong trường hợp
không thể xem xét ngay được thì đồ vật và tài liệu thu giữ phải được bảo quản,
giữ nguyên trạng hoặc niêm phong đưa về nơi tiến hành điều tra.
Điều 151. Khám nghiệm tử thi
Việc khám nghiệm
tử thi do Điều tra viên tiến hành có bác sĩ pháp y tham gia và phải có người
chứng kiến.
Trong trường hợp
cần phải khai quật tử thi thì phải có quyết định của Cơ quan điều tra và phải
thông báo cho gia đình nạn nhân biết trước khi tiến hành. Việc khai quật tử thi
phải có bác sỹ pháp y tham gia.
Khi cần thiết có
thể triệu tập người giám định và phải có người chứng kiến.
Trong mọi trường
hợp, việc khám nghiệm tử thi phải được thông báo trước cho Viện kiểm sát cùng
cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt để tiến hành kiểm sát việc khám nghiệm tử
thi.
Điều 152. Xem xét dấu vết trên thân thể
1. Điều tra viên
tiến hành xem xét thân thể người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, người bị hại,
người làm chứng để phát hiện trên người họ dấu vết của tội phạm hoặc các dấu
vết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Trong trường hợp cần thiết thì Cơ quan điều
tra trưng cầu giám định pháp y.
2. Việc xem xét
thân thể phải do người cùng giới tiến hành và phải có người cùng giới chứng
kiến. Trong trường hợp cần thiết thì có bác sĩ tham gia.
Không được xâm
phạm đến danh dự, nhân phẩm hoặc sức khỏe của người bị xem xét thân thể.
Điều 153. Thực nghiệm điều tra
1. Để kiểm tra và
xác minh những tài liệu, những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án, Cơ quan điều
tra có quyền thực nghiệm điều tra bằng cách cho dựng lại hiện trường, diễn lại
hành vi, tình huống hoặc mọi tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến
hành các hoạt động thực nghiệm cần thiết. Khi thấy cần, có thể đo đạc, chụp
ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ.
2. Khi tiến hành
thực nghiệm điều tra, phải có người chứng kiến. Trong trường hợp cần thiết,
người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng cũng có thể tham gia.
Không được xâm phạm
đến danh dự, nhân phẩm, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của những người tham gia
việc thực nghiệm điều tra.
3. Trong trường
hợp cần thiết, Viện kiểm sát có thể tiến hành thực nghiệm điều tra. Việc thực
nghiệm điều tra được tiến hành theo quy định tại Điều này.
Điều 154. Biên bản khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể và thực nghiệm điều
tra
Khi tiến hành khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể và thực
nghiệm điều tra phải lập biên bản theo quy định tại Điều 95 và Điều 125 của Bộ
luật này.
Điều 155. Trưng cầu giám định
1. Khi có những
vấn đề cần được xác định theo quy định tại khoản 3 Điều này hoặc khi xét thấy
cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định.
2. Quyết định
trưng cầu giám định phải nêu rõ yêu cầu giám định vấn đề gì; họ tên người được
trưng cầu giám định hoặc tên cơ quan tiến hành giám định; ghi rõ quyền và nghĩa
vụ của người giám định quy định tại Điều 60 của Bộ luật này.
3. Bắt buộc phải
trưng cầu giám định khi cần xác định:
a) Nguyên nhân
chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao
động;
b) Tình trạng tâm
thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm
hình sự của họ;
c) Tình trạng tâm
thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về
khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án;
d) Tuổi của bị
can, bị cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài
liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài
liệu đó;
đ) Chất độc, chất
ma tuý, chất phóng xạ, tiền giả.
Điều 156. Việc tiến hành giám định
1. Việc giám định
có thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án
ngay sau khi có quyết định trưng cầu giám định.
Điều tra viên,
Kiểm sát viên có quyền tham dự giám định, nhưng phải báo trước cho người giám
định biết.
2. Trong trường
hợp việc giám định không thể tiến hành theo thời hạn mà cơ quan trưng cầu giám
định yêu cầu thì cơ quan giám định hoặc người giám định phải thông báo ngay
bằng văn bản và nêu rõ lý do cho cơ quan đã trưng cầu giám định biết.
Điều 157. Nội dung kết luận giám định
1. Nội dung kết
luận giám định phải ghi rõ: thời gian, địa điểm tiến hành giám định; họ tên,
trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn của người giám định; những người tham gia
khi tiến hành giám định; những dấu vết, đồ vật, tài liệu và tất cả những gì đã
được giám định, những phương pháp được áp dụng và giải đáp những vấn đề đã được
đặt ra có căn cứ cụ thể.
2. Để làm sáng tỏ
hoặc bổ sung nội dung kết luận giám định, cơ quan trưng cầu giám định có thể
hỏi thêm người giám định về những tình tiết cần thiết và có thể quyết định giám
định bổ sung hoặc giám định lại.
Điều 158. Quyền của bị can và những
người tham gia tố tụng đối với kết luận giám định
1. Sau khi đã tiến
hành giám định, nếu bị can, những người tham gia tố tụng khác yêu cầu thì cơ
quan đã trưng cầu giám định phải thông báo cho họ về nội dung kết luận giám
định.
Bị can, những
người tham gia tố tụng khác được trình bày những ý kiến của mình về kết luận
giám định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại. Những việc này được
ghi vào biên bản.
2. Trong trường
hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không chấp nhận yêu cầu của bị can, những
người tham gia tố tụng khác thì phải nêu rõ lý do và thông báo cho họ biết.
Điều 159. Giám định bổ sung hoặc giám
định lại
1. Việc giám định
bổ sung được tiến hành trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ,
chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh những vấn đề mới liên quan đến những tình tiết
của vụ án đã được kết luận trước đó.
2. Việc giám định
lại được tiến hành khi có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn trong
các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định. Việc giám định lại
phải do người giám định khác tiến hành.
3. Việc giám định
bổ sung hoặc giám định lại được tiến hành theo thủ tục chung quy định tại các
điều 155, 156, 157 và 158 của Bộ luật này.
Chương XIV
TẠM ĐÌNH CHỈ
ĐIỀU TRA VÀ KẾT THÚC ĐIỀU TRA
Điều 160. Tạm đình chỉ điều tra
1. Khi bị can bị
bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của Hội đồng giám định
pháp y thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết hạn điều tra. Trong
trường hợp chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu thì
chỉ tạm đình chỉ điều tra khi đã hết thời hạn điều tra.
Trong trường hợp
đã trưng cầu giám định nhưng chưa có kết quả giám định mà hết thời hạn điều tra
thì tạm đình chỉ điều tra và việc giám định vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến
khi có kết quả.
Trong trường hợp
vụ án có nhiều bị can mà lý do tạm đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả
các bị can, thì có thể tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
Nếu không biết bị
can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình
chỉ điều tra.
2. Cơ quan điều
tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm
sát cùng cấp, bị can, người bị hại.
Điều 161. Truy nã bị can
Khi bị can trốn
hoặc không biết bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy
nã bị can.
Quyết định truy nã
phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm ra quyết định truy nã; họ tên, chức
vụ người ra quyết định; họ tên, tuổi, nơi cư trú của bị can; đặc điểm để nhận
dạng bị can, dán ảnh kèm theo, nếu có; tội phạm mà bị can đã bị khởi tố.
Quyết định truy nã
được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người phát hiện,
bắt, giữ người bị truy nã.
Điều 162. Kết thúc điều tra
1. Khi kết thúc
điều tra, Cơ quan điều tra phải làm bản kết luận điều tra.
2. Việc điều tra
kết thúc khi Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra
bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra.
3. Bản kết luận
điều tra phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra
kết luận.
4. Trong thời hạn
hai ngày, kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi bản
kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết
định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; gửi bản kết
luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can,
người bào chữa.
Điều 163. Đề nghị truy tố
1. Khi có đầy đủ
chứng cứ để xác định có tội phạm và bị can thì Cơ quan điều tra làm bản kết
luận điều tra đề nghị truy tố. Bản kết luận điều tra trình bày diễn biến hành
vi phạm tội, nêu rõ các chứng cứ chứng minh tội phạm, những ý kiến đề xuất giải
quyết vụ án, có nêu rõ lý do và căn cứ đề nghị truy tố.
2. Kèm theo bản
kết luận điều tra có bản kê về thời hạn điều tra, biện pháp ngăn chặn đã được
áp dụng có ghi rõ thời gian tạm giữ, tạm giam, vật chứng, việc kiện dân sự,
biện pháp để bảo đảm việc phạt tiền, bồi thường và tịch thu tài sản, nếu có.
Điều 164. Đình chỉ điều tra
1. Trong trường
hợp đình chỉ điều tra, bản kết luận điều tra nêu rõ quá trình điều tra, lý do
và căn cứ đình chỉ điều tra.
2. Cơ quan điều
tra ra quyết định đình chỉ điều tra trong những trường hợp sau đây:
a) Có một trong
những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 của Bộ luật này hoặc tại
Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ luật hình sự;
b) Đã hết thời hạn
điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
3. Quyết định đình
chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ
điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, trả lại đồ vật, tài liệu đã tạm giữ,
nếu có và những vấn đề khác có liên quan.
Nếu trong một vụ
án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả
các bị can, thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
4. Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan
điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát
phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền;
nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì huỷ bỏ quyết định
đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ
căn cứ để truy tố thì huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy
tố. Thời hạn ra quyết định truy tố được thực hiện theo quy định tại Điều 166
của Bộ luật này.
Điều 165. Phục hồi điều tra
1. Khi có lý do để
hủy bỏ quyết định đình chỉ hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra thì Cơ quan
điều tra ra quyết định phục hồi điều tra, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định phục hồi điều
tra, cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Nếu việc điều
tra bị đình chỉ theo quy định tại điểm 5 và điểm 6 Điều 107 của Bộ luật này mà
bị can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm
sát cùng cấp ra quyết định phục hồi điều tra.
Chương XV
QUYẾT ĐỊNH
VIỆC TRUY TỐ
Điều 166. Thời hạn quyết định truy tố
1. Trong thời hạn
hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba
mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng,
kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải
ra một trong những quyết định sau đây:
a) Truy tố bị can
trước Tòa án bằng bản cáo trạng;
b) Trả hồ sơ để
điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án.
Trong trường hợp
cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn, nhưng không quá mười ngày
đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; không quá mười lăm
ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá ba mươi ngày đối với tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng.
Trong thời hạn ba
ngày, kể từ ngày ra một trong những quyết định nêu trên, Viện kiểm sát phải
thông báo cho bị can, người bào chữa biết; giao bản cáo trạng, quyết định đình
chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can. Người bào chữa được
đọc bản cáo trạng, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên
quan đến việc bào chữa theo quy định của pháp luật và đề xuất yêu cầu.
2. Sau khi nhận hồ
sơ vụ án, Viện kiểm sát có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can. Thời hạn tạm giam
không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Trong trường
hợp truy tố thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng
bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án.
4. Trong trường
hợp vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của mình, Viện kiểm sát ra ngay quyết
định chuyển vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Điều 167. Bản cáo trạng
1. Nội dung bản
cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; thủ
đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan
trọng khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng
nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can và mọi
tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Phần kết luận của
bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng.
2. Bản cáo trạng
phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập cáo trạng; họ tên, chức vụ và chữ ký của người
ra bản cáo trạng.
Điều 168. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Viện kiểm sát ra
quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung khi nghiên cứu hồ
sơ vụ án phát hiện thấy:
1. Còn thiếu những
chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung
được;
2. Có căn cứ để
khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác;
3. Có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần
được điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu điều tra bổ
sung.
Điều 169. Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án
1. Viện kiểm sát
ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2
Điều 105 và Điều 107 của Bộ luật này hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều
69 của Bộ luật hình sự.
2. Viện kiểm sát
quyết định tạm đình chỉ vụ án trong những trường hợp sau đây:
a) Khi bị can bị
bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác mà có chứng nhận của Hội đồng giám định
pháp y;
b) Khi bị can bỏ
trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ
quan điều tra truy nã bị can.
3. Trong trường
hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án không
liên quan đến tất cả các bị can, thì có thể đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án
đối với từng bị can.
4. Trong trường
hợp quyết định đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát cấp dưới không có căn cứ và
trái pháp luật, thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền huỷ bỏ quyết
định đó và yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới ra quyết định truy tố.
Phần thứ ba
XÉT XỬ SƠ
THẨM
Chương XVI
THẨM QUYỀN
CỦA TOÀ ÁN CÁC CẤP
Điều 170. Thẩm quyền xét xử của Tòa án
các cấp
1. Tòa án nhân dân
cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những
tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng,
trừ những tội phạm sau đây :
a) Các tội xâm
phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá
hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội quy
định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225,
226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự.
2. Tòa án nhân dân
cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về
những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án
quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình
lấy lên để xét xử.
Điều 171. Thẩm quyền theo lãnh thổ
1. Tòa án có thẩm
quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường
hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được
nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc
việc điều tra.
2. Bị cáo phạm tội
ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam
thì do Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước
xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo
thì tùy trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử.
Bị cáo phạm tội ở
nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì do Tòa án quân
sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự
trung ương.
Điều 172. Thẩm quyền xét xử những tội
phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải của
Việt Nam
Những tội phạm xảy
ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang
hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay,
tàu biển đó được đăng ký.
Điều 173. Việc xét xử bị cáo phạm nhiều
tội thuộc thẩm quyền của các Tòa án khác cấp
Khi bị cáo phạm
nhiều tội, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên,
thì Tòa án cấp trên xét xử toàn bộ vụ án.
Điều 174. Chuyển vụ án
Khi thấy vụ án
không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm
quyền xét xử. Việc chuyển vụ án cho Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa
án quân sự cấp quân khu quyết định.
Chỉ được chuyển vụ
án cho Tòa án khác khi vụ án chưa được xét xử. Trong trường hợp này, việc
chuyển vụ án do Chánh án Tòa án quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa
án quân sự hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển
cho Tòa án có thẩm quyền. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Hội đồng
xét xử quyết định.
Trong thời hạn hai
ngày, kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo cho Viện
kiểm sát cùng cấp, báo cho bị cáo và những người có liên quan trong vụ án.
Điều 175. Giải quyết việc tranh chấp về
thẩm quyền xét xử
1. Việc giải quyết
tranh chấp về thẩm quyền xét xử do Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp quyết
định.
2. Việc giải quyết
tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, do Chánh án Tòa án nhân dân cấp
tỉnh nơi kết thúc việc điều tra quyết định.
3. Việc giải quyết
tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Toà án nhân dân và Tòa án quân sự do Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.
Chương XVII
CHUẨN BỊ XÉT
XỬ
Điều 176. Thời hạn chuẩn bị xét xử
1. Sau khi nhận hồ
sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ
sơ; giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố tụng và
tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa.
2. Trong thời hạn
ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội
phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối
với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau đây:
a) Đưa vụ án ra
xét xử ;
b) Trả hồ sơ để
điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án.
Đối với những vụ
án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét
xử, nhưng không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm
nghiêm trọng, không quá ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải được
thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở
phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì Toà án có thể mở phiên toà
trong thời hạn ba mươi ngày.
Đối với vụ án được
trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn mười lăm ngày sau khi nhận lại
hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử.
Điều 177. Áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn
Sau khi nhận hồ sơ
vụ án, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền quyết định việc áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, trừ việc áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án quyết định.
Thời hạn tạm giam
để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều
176 của Bộ luật này.
Đối với bị cáo
đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét
thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm
giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Điều 178. Nội dung của quyết định đưa vụ
án ra xét xử
Quyết định đưa vụ
án ra xét xử phải ghi rõ:
1. Họ tên, ngày,
tháng, năm sinh, nơi sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của bị cáo;
2. Tội danh và
điều khoản của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát áp dụng đối với hành vi của bị
cáo;
3. Ngày, giờ,
tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa;
4. Xử công khai
hay xử kín;
5. Họ tên Thẩm
phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; họ tên Thẩm phán dự khuyết, Hội thẩm dự khuyết,
nếu có;
6. Họ tên Kiểm sát
viên tham gia phiên toà; họ tên Kiểm sát viên dự khuyết, nếu có;
7. Họ tên người
bào chữa, nếu có;
8. Họ tên người
phiên dịch, nếu có;
9. Họ tên những
người được triệu tập để xét hỏi tại phiên toà;
10. Vật chứng cần
đưa ra xem xét tại phiên toà.
Điều 179. Quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung
1. Thẩm phán ra
quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong những trường
hợp sau đây:
a) Khi cần xem xét
thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa
được;
b) Khi có căn cứ
để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác;
c) Khi phát hiện
có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần
điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.
2. Nếu kết quả
điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định
đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết.
Trong trường hợp
Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu bổ sung và vẫn
giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
Điều 180. Quyết định tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ vụ án
Thẩm phán ra quyết
định tạm đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại Điều 160 của Bộ luật này; ra
quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2
Điều 105 và các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 của Bộ luật này hoặc khi Viện
kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà.
Trong trường hợp
vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án
không liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo thì có thể tạm đình chỉ hoặc đình
chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo.
Quyết định đình
chỉ vụ án phải ghi rõ nội dung theo quy định tại khoản 3 Điều 164 của Bộ luật
này.
Điều 181. Viện kiểm sát rút quyết định
truy tố
Nếu xét thấy có
một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của Bộ luật này hoặc có căn cứ để
miễn trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo theo quy định tại Điều 19, Điều 25
và khoản 2 Điều 69 của Bộ luật hình sự, thì Viện kiểm sát rút quyết định truy
tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.
Điều 182. Việc giao các quyết định của
Tòa án
1. Quyết định đưa
vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và
người bào chữa, chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên tòa.
Trong trường hợp
xét xử vắng mặt bị cáo thì quyết định đưa vụ án ra xét xử và bản cáo trạng được
giao cho người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo; quyết định đưa
vụ án ra xét xử còn phải được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị
trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối cùng của bị cáo.
2. Quyết định tạm
đình chỉ hoặc quyết định đình chỉ vụ án của Tòa án phải được giao cho bị can,
bị cáo, người bào chữa, người bị hại, người đại diện hợp pháp của bị can, bị
cáo; những người khác tham tố tụng thì được gửi giấy báo.
3. Quyết định đưa
vụ án ra xét xử, quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ vụ án phải được
gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
4. Quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn phải được gửi ngay cho bị can,
bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, trại tạm giam nơi bị can, bị cáo đang bị tạm
giam.
Điều 183. Triệu tập những người cần xét
hỏi đến phiên tòa
Căn cứ vào quyết
định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên
tòa.
Chương XVIII
QUY ĐỊNH
CHUNG VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TÒA
Điều 184. Xét xử trực tiếp, bằng lời nói
và liên tục
1. Tòa án phải
trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến của
bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người làm
chứng, người giám định, xem xét vật chứng và nghe ý kiến của Kiểm sát viên,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Bản án chỉ được căn cứ vào
những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.
2. Việc xét xử
phải tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ.
Điều 185. Thành phần Hội đồng xét xử sơ
thẩm
Hội đồng xét xử sơ
thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất
nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội
thẩm.
Đối với vụ án mà
bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình
thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa điều khiển việc xét xử tại phiên tòa và giữ kỷ luật phiên tòa.
Điều 186. Thay thế thành viên của Hội
đồng xét xử trong trường hợp đặc biệt
1. Các thành viên
của Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc.
2. Trong quá trình
xét xử, nếu có Thẩm phán, Hội thẩm không tiếp tục tham gia xét xử được thì Tòa
án vẫn có thể xét xử vụ án nếu có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết. Thẩm phán hoặc
Hội thẩm dự khuyết phải có mặt tại phiên tòa từ đầu thì mới được tham gia xét
xử. Trong trường hợp Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán mà Thẩm phán chủ toạ
phiên toà không tiếp tục tham gia xét xử được thì Thẩm phán là thành viên Hội
đồng xét xử làm chủ toạ phiên toà và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành
viên Hội đồng xét xử.
3. Trong trường
hợp không có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ
toạ phiên toà mà không có Thẩm phán để thay thế theo quy định tại khoản 2 Điều
này thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu.
Điều 187. Sự có mặt của bị cáo tại phiên
tòa
1. Bị cáo phải có
mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt không có lý do
chính đáng thì bị áp giải theo thủ tục quy định tại Điều 130 của Bộ luật này;
nếu bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa.
Nếu bị cáo bị bệnh
tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án
cho đến khi bị cáo khỏi bệnh.
Nếu bị cáo trốn
tránh thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy
nã bị cáo.
2. Tòa án chỉ có
thể xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị cáo trốn
tránh và việc truy nã không có kết quả;
b) Bị cáo đang ởnước
ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;
c) Nếu sự vắng mặt
của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp
lệ.
Điều 188. Giám sát bị cáo tại phiên tòa
1. Bị cáo đang bị
tạm giam khi ra phiên tòa chỉ được tiếp xúc với người bào chữa. Việc tiếp xúc
với những người khác phải được phép của chủ tọa phiên tòa.
2. Bị cáo không bị
tạm giam phải có mặt tại phiên tòa trong suốt thời gian xét xử vụ án.
Điều 189. Sự có mặt của Kiểm sát viên
1. Kiểm sát viên
Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa. Đối với vụ án có tính chất
nghiêm trọng, phức tạp thì hai Kiểm sát viên có thể cùng tham gia phiên tòa.
Trong trường hợp cần thiết có thể có Kiểm sát viên dự khuyết.
2. Nếu Kiểm sát
viên vắng mặt, bị thay đổi mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì
Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa và báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều 190. Sự có mặt của người bào chữa
Người bào chữa có
nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho
Tòa án. Nếu người bào chữa vắng mặt Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.
Trong trường hợp
bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của Bộ luật
này mà người bào chữa vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa.
Điều 191. Sự có mặt của người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
hoặc người đại diện hợp pháp của họ
1. Nếu người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội
đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
2. Nếu thấy sự
vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ trở ngại cho
việc giải quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi
thường để xét xử sau theo thủ tục tố tụng dân sự.
Điều 192. Sự có mặt của người làm chứng
Người làm chứng
tham gia phiên tòa để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Nếu người làm chứng
vắng mặt nhưng trước đó đã có lời khai ởCơ quan điều tra thì chủ tọa phiên tòa
công bố những lời khai đó. Nếu người làm chứng về những vấn đề quan trọng vắng
mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến
hành xét xử.
Trong trường hợp
người làm chứng được Toà án triệu tập nhưng cố ý không đến mà không có lý do
chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội đồng
xét xử có thể ra quyết định dẫn giải. Thủ tục dẫn giải người làm chứng được
thực hiện theo quy định tại Điều 134 của Bộ luật này.
Điều 193. Sự có mặt của người giám định
1. Người giám định
tham gia phiên tòa khi được Tòa án triệu tập.
2. Nếu người giám
định vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa
hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Điều 194. Thời hạn hoãn phiên tòa
Trong trường hợp
phải hoãn phiên tòa theo quy định tại các điều 45, 46, 47, 187, 189, 190, 191,
192 và 193 của Bộ luật này, thì thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không được quá
ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.
Điều 195. Kiểm sát viên rút quyết định
truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên toà
Tại phiên tòa, sau
khi xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố
hoặc kết luận về tội nhẹ hơn, nhưng Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ
án.
Điều 196. Giới hạn của việc xét xử
Tòa án chỉ xét xử
những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án
đã quyết định đưa ra xét xử.
Toà án có thể xét
xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một
điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy
tố.
Điều 197. Nội quy phiên tòa
1. Trước khi bắt
đầu phiên tòa, Thư ký Tòa án phải phổ biến nội quy phiên tòa.
2. Mọi người
ởtrong phòng xử án đều phải có thái độ tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ gìn trật
tự và tuân theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.
3. Mọi người
ởtrong phòng xử án đều phải đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án. Những
người được Tòa án triệu tập để xét hỏi được trình bày ý kiến và người nào muốn
trình bày phải được chủ tọa phiên tòa cho phép. Người trình bày ý kiến phải
đứng khi được hỏi, trừ trường hợp vì lý do sức khỏe được chủ tọa phiên tòa cho
phép ngồi để trình bày.
4. Những người
dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập
để xét hỏi.
Điều 198. Những biện pháp đối với người
vi phạm trật tự phiên tòa
Những người vi
phạm trật tự phiên tòa thì tùy trường hợp, có thể bị chủ tọa phiên tòa cảnh
cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bị bắt giữ.
Người bảo vệ phiên
tòa có nhiệm vụ bảo vệ trật tự phiên tòa và thi hành lệnh của chủ tọa phiên tòa
về việc buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ người gây rối trật tự tại phiên
tòa.
Điều 199. Việc ra bản án và các quyết
định của Tòa án
1. Bản án của Tòa
án quyết định việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và các biện
pháp tư pháp khác. Bản án phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án.
2. Quyết định về
việc thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án,
người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung, tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải
được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản.
3. Quyết định về
các vấn đề khác được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án,
không phải lập thành văn bản, nhưng phải được ghi vào biên bản phiên tòa.
Điều 200. Biên bản phiên tòa
1. Biên bản phiên
tòa phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm của phiên tòa và mọi diễn biến
ởphiên tòa từ khi bắt đầu cho đến khi tuyên án. Cùng với việc ghi biên bản, có
thể ghi ââm, ghi hình về diễn biến phiên tòa.
2. Những câu hỏi
và những câu trả lời đều phải được ghi vào biên bản.
3. Sau khi kết
thúc phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải kiểm tra biên bản và cùng với Thư ký Tòa
án ký vào biên bản đó.
4. Kiểm sát viên,
bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
hoặc đại diện hợp pháp của những người đó được xem biên bản phiên tòa, có quyền
yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận.
Chương XIX
THỦ TỤC BẮT
ĐẦU PHIÊN TÒA
Điều 201. Thủ tục bắt đầu phiên tòa
Khi bắt đầu phiên
tòa, chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Sau khi nghe Thư
ký Tòa án báo cáo danh sách những người được triệu tập đã có mặt, chủ tọa phiên
tòa kiểm tra căn cước của những người đó và giải thích cho họ biết quyền và
nghĩa vụ của họ tại phiên tòa.
Trong trường hợp
bị cáo chưa được giao nhận bản cáo trạng theo quy định tại khoản 2 Điều 49 và
quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 182 của
Bộ luật này và nếu bị cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa.
Điều 202. Giải quyết việc đề nghị thay
đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người
phiên dịch
Kiểm sát viên và
những người tham gia tố tụng phải được chủ toạ phiên toà hỏi xem họ có đề nghị
thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định,
người phiên dịch hay không. Nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét và
quyết định.
Điều 203. Giải thích quyền và nghĩa vụ
của người phiên dịch, người giám định
Nếu có người phiên
dịch, người giám định tham gia phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa giới thiệu họ
tên, nghề nghiệp hoặc chức vụ của những người đó và giải thích rõ những quyền
và nghĩa vụ của họ. Những người này phải cam đoan làm tròn nhiệm vụ.
Điều 204. Giải thích quyền, nghĩa vụ và
cách ly người làm chứng
1. Sau khi đã hỏi
họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của từng người làm chứng, chủ tọa phiên
tòa giải thích rõ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ. Người làm chứng phải cam
đoan không khai gian dối. Riêng người làm chứng chưa thành niên không phải cam
đoan.
2. Trước khi người
làm chứng được hỏi về vụ án, chủ tọa phiên tòa có thể quyết định những biện
pháp để cho những người làm chứng không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp
xúc với những người có liên quan. Trong trường hợp lời khai của bị cáo và người
làm chứng có ảảnh hưởng lẫn nhau thì chủ tọa phiên tòa có thể quyết định cách
ly bị cáo với người làm chứng trước khi hỏi người làm chứng.
Điều 205. Giải quyết những yêu cầu về
xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt
Chủ tọa phiên tòa
phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu triệu
tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét
hay không. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa cũng
phải hỏi xem có ai yêu cầu hoãn phiên tòa hay không. Nếu có người yêu cầu thì Hội
đồng xét xử xem xét và quyết định.
Chương XX
THỦ TỤC XÉT
HỎI TẠI PHIÊN TÒA
Điều 206. Đọc bản cáo trạng
Trước khi tiến
hành xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung, nếu
có.
Điều 207. Trình tự xét hỏi
1. Hội đồng xét xử
phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án
theo thứ tự xét hỏi hợp lý.
2. Khi xét hỏi
từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm
sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham
gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những
tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên
quan đến việc giám định.
3. Khi xét hỏi,
Hội đồng xét xử xem xét những vật chứng có liên quan trong vụ án.
Điều 208. Công bố những lời khai tại Cơ
quan điều tra
1. Nếu người được
xét hỏi có mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên không được
nhắc hoặc công bố lời khai của họ tại Cơ quan điều tra trước khi họ khai tại
phiên tòa về những tình tiết của vụ án.
2. Chỉ được công
bố những lời khai tại Cơ quan điều tra trong những trường hợp sau đây:
a) Lời khai của
người được xét hỏi tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai của họ tại Cơ quan
điều tra;
b) Người được xét
hỏi không khai tại phiên tòa;
c) Người được xét
hỏi vắng mặt hoặc đã chết.
Điều 209. Hỏi bị cáo
1. Hội đồng xét xử
phải hỏi riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể ảảnh hưởng đến
lời khai của bị cáo khác thì chủ tọa phiên tòa phải cách ly họ. Trong trường
hợp này, bị cáo bị cách ly được thông báo lại nội dung lời khai của bị cáo
trước và có quyền đặt câu hỏi đối với bị cáo đó.
2. Bị cáo trình
bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Hội đồng xét xử hỏi
thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
3. Kiểm sát viên
hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo.
Người bào chữa hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bảo vệ quyền
lợi của đương sự. Những người tham gia phiên toà có quyền đề nghị với chủ toạ
phiên toà hỏi thêm về những tình tiết liên quan đến họ.
4. Nếu bị cáo
không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét
vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án.
Điều 210. Hỏi người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc
người đại diện hợp pháp của họ
Người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án hoặc người đại diện hợp pháp của những người đó trình bày về những tình tiết
của vụ án có liên quan đến họ. Sau đó, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào
chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi thêm về những điểm mà họ trình
bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Điều 211. Hỏi người làm chứng
1. Hội đồng xét xử
phải hỏi riêng từng người làm chứng và không để cho những người làm chứng khác
biết được nội dung xét hỏi đó.
2. Khi hỏi người
làm chứng, Hội đồng xét xử phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ với bị cáo và các
đương sự trong vụ án. Chủ tọa phiên toà yêu cầu người làm chứng trình bày rõ
những tình tiết vụ án mà họ đã biết, sau đó hỏi thêm về những điểm mà họ khai
chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự có thể hỏi thêm người làm chứng.
3. Nếu người làm
chứng là người chưa thành niên thì chủ tọa phiên toà có thể yêu cầu cha, mẹ,
người đỡ đầu hoặc thầy giáo, cô giáo giúp đỡ để hỏi.
4. Sau khi đã
trình bày xong, người làm chứng ởlại phòng xử án để có thể được hỏi thêm.
5. Trong trường
hợp cần thiết phải bảo đảm an toàn cho người làm chứng và những người thân
thích của họ, Hội đồng xét xử phải quyết định thực hiện biện pháp bảo vệ theo
quy định của pháp luật.
Điều 212. Xem xét vật chứng
1. Vật chứng, ảảnh
hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét tại phiên tòa.
Khi cần thiết, Hội
đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác
tham gia phiên tòa đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên
tòa được. Việc xem xét tại chỗ phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95
của Bộ luật này.
2. Kiểm sát viên,
người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày những
nhận xét của mình về vật chứng. Hội đồng xét xử có thể hỏi thêm về những vấn đề
có liên quan đến vật chứng.
Điều 213. Xem xét tại chỗ
Nếu xét thấy cần
thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa và những
người khác tham gia phiên tòa đến xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa
điểm khác có liên quan đến vụ án. Kiểm sát viên, người bào chữa và những người
khác tham gia phiên toà có quyền trình bày nhận xét của mình về nơi đã xảy ra
tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án.
Hội đồng xét xử có
thể hỏi thêm những người tham gia phiên toà về những vấn đề có liên quan đến
những nơi đó.
Việc xem xét tại
chỗ phải được lập biên bản theo thủ tục chung quy định tại Điều 95 của Bộ luật
này.
Điều 214. Việc trình bày, công bố các
tài liệu của vụ án và nhận xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức
Nhận xét, báo cáo
của cơ quan, tổ chức về những tình tiết của vụ án do đại diện của cơ quan, tổ
chức đó trình bày; trong trường hợp không có đại diện của cơ quan, tổ chức đó
tham dự thì Hội đồng xét xử công bố nhận xét, báo cáo tại phiên tòa.
Các tài liệu đã có
trong hồ sơ vụ án hoặc mới đưa ra khi xét hỏi đều phải được công bố tại phiên
tòa.
Kiểm sát viên, bị
cáo, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa có quyền nhận xét về
những tài liệu đó và hỏi thêm những vấn đề có liên quan.
Điều 215. Hỏi người giám định
1. Người giám định
trình bày kết luận của mình về vấn đề được giao giám định.
2. Tại phiên tòa,
người giám định có quyền giải thích bổ sung trên cơ sở kết luận giám định.
3. Nếu người giám
định vắng mặt, thì chủ tọa phiên tòa công bố kết luận giám định.
4. Kiểm sát viên,
người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa có quyền nhận xét về kết
luận giám định, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết
luận giám định.
5. Khi xét thấy
cần thiết, Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.
Điều 216. Kết thúc xét hỏi
Khi nhận thấy các
tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát
viên, bị cáo, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa xem họ có
yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không. Nếu có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu
đó là cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc xét hỏi.
Chương XXI
TRANH LUẬN
TẠI PHIÊN TÒA
Điều 217. Trình tự phát biểu khi tranh
luận
1. Sau khi kết
thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị
kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về
tội nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định
truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội.
Luận tội của Kiểm
sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên
toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
2. Bị cáo trình
bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị
cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
3. Người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền
và lợi íích của mình; nếu có người bảo vệ quyền lợi cho họ thì người này có
quyền trình bày, bổ sung ý kiến.
Điều 218. Đối đáp
Bị cáo, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội
của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra những
lập luận của mình đối với từng ý kiến.
Người tham gia
tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được
hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận
trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ
án.
Chủ tọa phiên tòa
có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án
của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa
được Kiểm sát viên tranh luận.
Điều 219. Trở lại việc xét hỏi
Nếu qua tranh luận
mà thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết định trở lại
việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận.
Điều 220. Bị cáo nói lời sau cùng
Sau khi những
người tham gia tranh luận không trình bày gì thêm, chủ tọa phiên tòa tuyên bố
kết thúc tranh luận.
Bị cáo được nói
lời sau cùng. Không được đặt câu hỏi khi bị cáo nói lời sau cùng. Hội đồng xét
xử có quyền yêu cầu bị cáo không được trình bày những điểm không liên quan đến
vụ án, nhưng không được hạn chế thời gian đối với bị cáo.
Nếu trong lời nói
sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ
án, thì Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi.
Điều 221. Xem xét việc rút quyết định
truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn
1. Khi Kiểm sát
viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì Hội đồng
xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án.
2. Trong trường
hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, Hội
đồng xét xử yêu cầu những người tham gia tố tụng tại phiên tòa trình bày ý kiến
về việc rút truy tố đó.
Chương XXII
NGHỊ ÁN VÀ
TUYÊN ÁN
Điều 222. Nghị án
1. Chỉ Thẩm phán
và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải
quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề
một. Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày
ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.
2. Trong trường
hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn giải
quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều này. Nếu
có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo
không có tội; nếu thấy việc rút truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình
chỉ vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
3. Khi nghị án chỉ
được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên
cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
4. Khi nghị án
phải có biên bản ghi lại các ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét
xử. Biên bản nghị án phải được tất cả các thành viên Hội đồng xét xử ký tại
phòng nghị án trước khi tuyên án.
Điều 223. Trở lại việc xét hỏi và tranh
luận
Qua việc nghị án
nếu thấy có tình tiết của vụ án chưa được xét hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì
Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc xét hỏi và tranh luận.
Điều 224. Bản án
1. Toà án ra bản
án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Trong bản án
cần phải ghi rõ: ngày, giờ, tháng, năm và địa điểm phiên toà; họ tên của các
thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký Toà án; họ tên của Kiểm sát viên; họ tên,
ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa,
thành phần xã hội, tiền án, tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm
giam; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp
pháp của bị cáo; họ tên của người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư
trú của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ.
3. Trong bản án
phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có
tội và chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không và
nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều, khoản nào của Bộ luật hình sự,
tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cần phải xử lý
như thế nào. Nếu bị cáo không phạm tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác
định bị cáo không có tội và phải giải quyết việc khôi phục danh dự, quyền và
lợi íích hợp pháp của họ. Phần cuối cùng của bản án ghi những quyết định của
Toà án và quyền kháng cáo đối với bản án.
Điều 225. Kiến nghị sửa chữa những
khuyết điểm trong công tác quản lý
1. Cùng với việc
ra bản án, Tòa án ra kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng những biện
pháp cần thiết để khắc phục những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm
tại các cơ quan, tổ chức đó. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được
kiến nghị của Tòa án, cơ quan, tổ chức đó phải thông báo bằng văn bản cho Tòa
án biết những biện pháp được áp dụng.
2. Kiến nghị của
Tòa án có thể được đọc tại phiên tòa cùng với bản án hoặc chỉ gửi riêng cho cơ
quan, tổ chức hữu quan.
Điều 226. Tuyên án
Khi tuyên án mọi
người trong phòng xử án phải đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên
khác của Hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm
về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo.
Nếu bị cáo không
biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải đọc lại cho bị cáo
nghe toàn bộ bản án sang thứ tiếng mà bị cáo biết.
Điều 227. Trả tự do cho bị cáo
Trong những trường
hợp sau đây, Hội đồng xét xử phải tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị
cáo đang bị tạm giam, nếu họ không bị tạm giam về một tội phạm khác:
1. Bị cáo không có
tội;
2. Bị cáo được
miễn trách nhiệm hình sự hoặc được miễn hình phạt;
3. Bị cáo bị xử
phạt bằng các hình phạt không phải là hình phạt tù;
4. Bị cáo bị xử
phạt tù, nhưng được hưởng án treo;
5. Thời hạn phạt
tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam.
Điều 228. Bắt tạm giam bị cáo sau khi
tuyên án
1. Đối với bị cáo
đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm
giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc
thi hành án, trừ trường hợp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của
Bộ luật này.
2. Trong trường
hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để
chấp hành hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử có thể
ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể
trốn hoặc tiếp tục phạm tội.
3. Thời hạn tạm
giam bị cáo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này là bốn mươi lăm ngày, kể
từ ngày tuyên án.
4. Đối với bị cáo
bị phạt tử hình thì Hội đồng xét xử quyết định trong bản án việc tiếp tục tạm
giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.
Điều 229. Việc giao bản án
Trong thời hạn
mười ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo,
Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa; gửi bản án cho người bị xử vắng mặt, cơ
quan Công an cùng cấp; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị
trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc.
Trong trường hợp
xử vắng mặt bị cáo theo quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 2 Điều 187 của Bộ
luật này thì trong thời hạn nêu trên bản án phải được niêm yết tại trụ sở chính
quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối cùng của bị cáo.
Người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến
vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Toà án cấp trích lục
bản án hoặc bản sao bản án.
Phần thứ tư
XÉT XỬ PHÚC
THẨM
Chương XXIII
TÍNH CHẤT
CỦA XÉT XỬ PHÚC THẨM VÀ QUYỀN KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ
Điều 230. Tính chất của xét xử phúc thẩm
Xét xử phúc thẩm
là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ
thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật
bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Điều 231. Những người có quyền kháng cáo
Bị cáo, người bị
hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định
sơ thẩm.
Người bào chữa có
quyền kháng cáo để bảo vệ lợi íích của người chưa thành niên hoặc người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án
hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ có quyền
kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
họ.
Người bảo vệ quyền
lợi của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
Người được Toà án
tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên
là họ không có tội.
Điều 232. Kháng nghị của Viện kiểm sát
Viện kiểm sát cùng
cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc
quyết định sơ thẩm.
Điều 233. Thủ tục kháng cáo và kháng
nghị
1. Người kháng cáo
phải gửi đơn đến Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm. Trong trường
hợp bị cáo đang bị tạm giam, Ban giám thị trại tạm giam phải bảo đảm cho bị cáo
thực hiện quyền kháng cáo.
Người kháng cáo
cũng có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xử sơ thẩm về việc kháng cáo. Tòa
án phải lập biên bản về việc kháng cáo đó theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật
này.
2. Viện kiểm sát
cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị bằng văn bản, có nêu
rõ lý do. Kháng nghị được gửi đến Tòa án đã xử sơ thẩm.
Điều 234. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị
1. Thời hạn kháng
cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt
tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc
được niêm yết.
Thời hạn kháng
nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án.
2. Nếu đơn kháng
cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi
gửi đóng dấu ở phong bì. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị
trại tạm giam, thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị trại
tạm giam nhận được đơn.
Điều 235. Kháng cáo quá hạn
1. Việc kháng cáo
quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng.
2. Tòa án cấp phúc
thẩm thành lập Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán để xét lý do kháng cáo quá hạn.
Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc
kháng cáo quá hạn.
Điều 236. Thông báo về việc kháng cáo,
kháng nghị
1. Việc kháng cáo,
kháng nghị phải được Toà án cấp sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm
sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị.
2. Người được
thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của
mình về nội dung kháng cáo, kháng nghị cho Toà án cấp phúc thẩm. ý kiến của họ
được đưa vào hồ sơ vụ án.
Điều 237. Hậu quả của việc kháng cáo,
kháng nghị
1. Những phần của
bản án bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 255 của Bộ luật này. Khi có kháng cáo, kháng nghị đối
với toàn bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi hành.
2. Tòa án cấp sơ
thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị cho Tòa áp cấp phúc thẩm
trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Điều 238. Bổ sung, thay đổi, rút kháng
cáo, kháng nghị
1. Trước khi bắt
đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền
bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng
của bị cáo; rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị.
2. Trong trường
hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm
phải được đình chỉ. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Toà án cấp
phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.
Điều 239. Kháng cáo, kháng nghị những
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
1. Thời hạn kháng
nghị đối với các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp
là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười lăm ngày, kể từ ngày
Tòa án ra quyết định.
2. Quyết định tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
Điều 240. Hiệu lực của bản án, quyết
định sơ thẩm của Tòa án không có kháng cáo, kháng nghị
Bản án, quyết định
và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo,
kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
Chương XXIV
THỦ TỤC XÉT
XỬ PHÚC THẨM
Điều 241. Phạm vi xét xử phúc thẩm
Tòa án cấp phúc
thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án
cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của
bản án.
Điều 242. Thời hạn xét xử phúc thẩm
Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên toà phúc thẩm trong thời
hạn sáu mươi ngày; Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung
ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày nhận
được hồ sơ vụ án.
Chậm nhất là mười
lăm ngày trước ngày mở phiên toà, Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo bằng văn
bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng về thời gian,
địa điểm xét xử phúc thẩm vụ án.
Điều 243. Việc Tòa án cấp phúc thẩm áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
1. Sau khi nhận hồ
sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm
giam do Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp
quân khu, Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao quyết định.
Thời hạn tạm giam
không được quá thời hạn xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 242 của Bộ luật này.
2. Đối với bị cáo
đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét
thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Toà án ra lệnh tạm
giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
3. Đối với bị cáo
đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam
đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi
hành án, trừ trường hợp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ
luật này.
Đối với bị cáo
không bị tạm giam, nhưng bị xử phạt tù thì Hội đồng xét xử có thể ra quyết định
bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án, trừ các trường hợp quy định tại Điều
261 của Bộ luật này.
Thời hạn tạm giam
là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.
Điều 244. Thành phần Hội đồng xét xử
phúc thẩm
Hội đồng xét xử
phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội
thẩm.
Điều 245. Những người tham gia phiên tòa
phúc thẩm
1. Tại phiên tòa
phúc thẩm, sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp là bắt buộc,
nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.
2. Người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị được triệu tập tham gia phiên tòa.
Nếu có người vắng mặt mà có lý do chính đáng thì Hội đồng xét xử có thể vẫn
tiến hành xét xử nhưng không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi cho bị
cáo hoặc đương sự vắng mặt. Trong các trường hợp khác thì phải hoãn phiên tòa.
Thời hạn hoãn
phiên tòa theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này hoặc tại các điều 45, 46,
và 47 của Bộ luật này không được quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định
hoãn phiên tòa.
3. Sự tham gia
phiên tòa của những người khác do Tòa án cấp phúc thẩm quyết định, nếu xét thấy
sự có mặt của họ là cần thiết.
Điều 246. Bổ sung, xem xét chứng cứ tại
Tòa án cấp phúc thẩm
1. Trước khi xét
xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc theo
yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật.
2. Chứng cứ cũ,
chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét tại phiên tòa.
Bản án của Tòa án cấp phúc thẩm phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và mới.
Điều 247. Thủ tục phiên toà phúc thẩm
Phiên tòa phúc
thẩm cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một thành
viên của Hội đồng xét xử phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của
bản án sơ thẩm, nội dung của kháng cáo hoặc kháng nghị. Khi tranh luận, Kiểm
sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Điều 248. Bản án phúc thẩm và thẩm quyền
của Toà án cấp phúc thẩm
1. Tòa án ra bản
án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bản án cần phải ghi rõ:
ngày, giờ, tháng, năm và địa điểm phiên tòa; họ tên của các thành viên Hội đồng
xét xử và Thư ký Tòa án; họ tên của Kiểm sát viên; họ tên, ngày, tháng, năm
sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần xã hội,
tiền án, tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi,
nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của bị cáo; họ
tên của người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người đại diện hợp pháp của họ.
Trong bản án phải
trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình giải quyết vụ án, quyết định của
bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị và các căn cứ để đưa ra một
trong các quyết định quy định tại khoản 2 Điều này. Phần cuối cùng của bản án
ghi những quyết định của Toà án.
2. Toà án cấp phúc
thẩm có quyền quyết định:
a) Không chấp nhận
kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
b) Sửa bản án sơ
thẩm;
c) Hủy bản án sơ
thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại;
d) Hủy bản án sơ
thẩm và đình chỉ vụ án.
3. Bản án phúc
thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Điều 249. Sửa bản án sơ thẩm
1. Tòa án cấp phúc
thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
a) Miễn trách
nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo;
b) áp dụng điều
khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
c) Giảm hình phạt
cho bị cáo;
d) Giảm mức bồi
thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng;
đ) Chuyển sang
hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án
treo.
2. Nếu có căn cứ,
Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình
sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên
mức hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc
không bị kháng cáo, kháng nghị.
3. Trong trường
hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp
phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng
hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc
kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự; nếu có căn cứ, Tòa án vẫn có thể
giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang
hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án
treo, giảm mức bồi thường thiệt hại.
Điều 250. Hủy bản án sơ thẩm để điều tra
lại hoặc xét xử lại
1. Toà án cấp phúc
thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi nhận thấy việc điều tra ởcấp sơ
thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được.
2. Toà án cấp phúc
thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ởcấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét
xử mới trong những trường hợp sau đây:
a) Thành phần Hội
đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về
thủ tục tố tụng;
b) Người được Toà
án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm
tội.
3. Khi hủy bản án
sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm phải ghi rõ lý do
của việc hủy bản án sơ thẩm.
4. Khi huỷ bản án
sơ thẩm để xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm không quyết định trước những chứng
cứ mà Toà án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, cũng như
không quyết định trước về điều khoản Bộ luật hình sự và hình phạt mà Toà án cấp
sơ thẩm sẽ phải áp dụng.
5. Trong trường
hợp hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối
với bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, thì
Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến khi
Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án.
Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày hủy bản án sơ thẩm, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho
Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục chung.
Điều 251. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ
vụ án
Khi có một trong
những căn cứ quy định tại điểm 1 và điểm 2 Điều 107 của Bộ luật này thì Tòa án
cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ
án; nếu có một trong những căn cứ quy định tại các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều
107 của Bộ luật này thì hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Điều 252. Điều tra lại hoặc xét xử lại
vụ án hình sự
Sau khi Tòa án cấp
phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại thì Cơ quan điều
tra tiến hành điều tra lại, Viện kiểm sát truy tố lại và Tòa án cấp sơ thẩm xét
xử lại vụ án theo thủ tục chung.
Điều 253. Phúc thẩm những quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm
1. Đối với những
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng nghị hoặc kháng cáo, Tòa án cấp phúc
thẩm không phải mở phiên toà, nhưng nếu xét cần thì có thể triệu tập những
người tham gia tố tụng cần thiết để nghe ý kiến của họ trước khi Tòa án ra
quyết định.
2. Tòa án cấp phúc
thẩm phải ra quyết định giải quyết việc kháng cáo hoặc kháng nghị trong thời hạn
mười ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
3. Khi xét những
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc
thẩm có những quyền hạn quy định tại Điều 248 của Bộ luật này.
4. Quyết định phúc
thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
Điều 254. Việc giao bản án và quyết định
phúc thẩm
Trong thời hạn
mười ngày, kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày ra quyết định, Tòa án cấp phúc
thẩm phải gửi bản án hoặc quyết định phúc thẩm cho người kháng nghị, Tòa án,
Viện kiểm sát, cơ quan Công an nơi đã xử sơ thẩm, người đã kháng cáo, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại
diện hợp pháp của họ, Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong trường hợp
bản án phúc thẩm có tuyên hình phạt tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân
sự; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan,
tổ chức nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc. Trong trường hợp Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao xử phúc thẩm thì thời hạn này có thể dài hơn nhưng không quá
hai mươi lăm ngày.
Người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Tòa án cấp trích lục
bản án hoặc bản sao bản án.
Phần thứ năm
THI HÀNH BẢN
ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Chương XXV
NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG VỀ THI HÀNH BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Điều 255. Những bản án và quyết định
được thi hành
1. Những bản án và
quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp
luật, bao gồm:
a) Những bản án và
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự
phúc thẩm;
b) Những bản án và
quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
c) Những quyết
định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
2. Trong trường
hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án,
không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt
không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn
phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của
Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị, kháng cáo.
Điều 256. Thủ tục đưa ra thi hành bản án
và quyết định của Toà án
1. Trong thời hạn
bảy ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể
từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết
định tái thẩm, Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án
hoặc ủy thác cho Toà án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
2. Quyết định thi
hành án phải ghi rõ họ tên người ra quyết định; tên cơ quan có nhiệm vụ thi
hành bản án hoặc quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của
người bị kết án; bản án hoặc quyết định mà người bị kết án phải chấp hành.
Trong trường hợp
người bị kết án đang tại ngoại thì quyết định thi hành án phạt tù phải ghi rõ
trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được quyết định, người đó phải có mặt
tại cơ quan Công an để thi hành án.
3. Quyết định thi
hành án, trích lục bản án hoặc quyết định phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng
cấp nơi thi hành án, cơ quan thi hành án và người bị kết án.
4. Trong trường
hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn, thì Chánh án Toà án đã
ra quyết định thi hành án yêu cầu Cơ quan công an cùng cấp ra quyết định truy
nã.
Điều 257. Cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ
thi hành bản án và quyết định của Toà án
1. Cơ quan Công an
thi hành hình phạt trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tham gia Hội
đồng thi hành hình phạt tử hình theo quy định tại Điều 259 của Bộ luật này.
2. Chính quyền xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc
có nhiệm vụ theo dõi, giáo dục, giám sát việc cải tạo của những người được
hưởng án treo hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ.
3. Việc thi hành hình
phạt quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định do chính quyền xã, phường, thị trấn
hoặc cơ quan, tổ chức nơi thi hành án đảm nhiệm.
4. Cơ sở chuyên
khoa y tế thi hành quyết định về bắt buộc chữa bệnh.
5. Cơ quan thi
hành án dân sự thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân sự
trong vụ án hình sự. Chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có
nhiệm vụ giúp chấp hành viên trong việc thi hành án. Nếu cần phải áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án thì cơ quan Công an và các cơ quan hữu quan khác có
nhiệm vụ phối hợp.
6. Việc thi hành
bản án và quyết định của Toà án quân sự do các tổ chức trong Quân đội đảm
nhiệm, trừ hình phạt trục xuất.
7. Các cơ quan thi
hành án phải báo cho Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án về việc bản
án hoặc quyết định đã được thi hành; nếu chưa thi hành được thì phải nêu rõ lý
do.
Chương XXVI
THI HÀNH
HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
Điều 258. Thủ tục xem xét bản án tử hình
trước khi đưa ra thi hành
1. Sau khi bản án
tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay lên Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao và bản án phải được gửi ngay lên Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
Trong thời hạn hai
tháng, kể từ ngày nhận được bản án và hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc
quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin
âân giảm lên Chủ tịch nước.
2. Bản án tử hình
được thi hành, nếu Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong trường hợp
bản án tử hình bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm mà Hội
đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm Toà án nhân dân tối cao quyết định không
chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình, thì Toà án nhân dân tối cao
phải thông báo ngay cho người bị kết án biết để họ làm đơn xin âân giảm án tử
hình.
Trong trường hợp
người bị kết án xin âân giảm hình phạt tử hình thì bản án tử hình được thi hành
sau khi Chủ tịch nước bác đơn xin âân giảm.
Điều 259. Thi hành hình phạt tử hình
1. Chánh án Tòa án
đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành hình
phạt tử hình gồm đại diện Tòa án, Viện kiểm sát và Công an. Hội đồng thi hành
án phải kiểm tra căn cước của người bị kết án trước khi thi hành án.
Trong trường hợp
người bị kết án là phụ nữ thì trước khi ra quyết định thi hành án, Chánh án Toà
án đã xét xử sơ thẩm phải tổ chức kiểm tra các điều kiện không áp dụng hình
phạt tử hình được quy định tại Điều 35 của Bộ luật hình sự. Nếu có căn cứ người
bị kết án có điều kiện quy định tại Điều 35 của Bộ luật hình sự thì Chánh án
Toà án đã xét xử sơ thẩm không ra quyết định thi hành án và báo cáo Chánh án
Toà án nhân dân tối cao để xem xét chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân
cho người bị kết án.
Trước khi thi hành
án đối với người bị kết án là phụ nữ thì Hội đồng thi hành án ngoài việc kiểm
tra căn cước, phải kiểm tra các tài liệu liên quan đến điều kiện không thi hành
án tử hình được quy định tại Điều 35 của Bộ luật hình sự.
Trong trường hợp
Hội đồng thi hành án phát hiện người bị kết án có điều kiện quy định tại Điều
35 của Bộ luật hình sự thì Hội đồng thi hành án hoãn thi hành án và báo cáo
Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án để báo cáo Chánh án Toà án nhân
dân tối cao xem xét chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân cho người bị
kết án.
2. Trước khi thi
hành án phải giao cho người bị kết án đọc quyết định thi hành án, quyết định
không kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và quyết định không kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; nếu người bị kết án đã có
đơn xin âân giảm án tử hình thì giao cho họ đọc bản sao quyết định của Chủ tịch
nước bác đơn xin âân giảm.
3. Hình phạt tử
hình được thi hành bằng xử bắn.
4. Việc thi hành
hình phạt tử hình phải được lập biên bản ghi rõ việc đã giao các quyết định cho
người bị kết án xem, những lời nói của họ và những thư từ, đồ vật mà họ gửi lại
cho người thân thích.
5. Trong trường
hợp có tình tiết đặc biệt, Hội đồng thi hành án hoãn thi hành và báo cáo Chánh
án Toà án đã ra quyết định thi hành án để báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao.
Chương XXVII
THI HÀNH
HÌNH PHẠT TÙ VÀ CÁC HÌNH PHẠT KHÁC
Điều 260. Thi hành hình phạt tù
1. Trong trường
hợp người bị kết án đang bị tạm giam thì theo yêu cầu của người thân thích
người bị kết án, cơ quan Công an phải cho phép người bị kết án gặp người thân
thích trước khi thi hành án.
Ban giám thị trại
giam phải thông báo cho gia đình người bị kết án biết nơi người đó chấp hành
hình phạt.
2. Trong trường
hợp người bị kết án đang tại ngoại, nếu quá thời hạn mà không có mặt tại cơ
quan Công an để chấp hành án thì người bị kết án sẽ bị áp giải.
3. Chánh án Tòa án
đã ra quyết định thi hành án phải theo dõi việc thi hành án. Cơ quan Công an
phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án về việc bắt người bị kết án để thi hành
án hoặc lý do chưa bắt được và biện pháp cần áp dụng để bảo đảm việc thi hành
án.
4. Trong trường
hợp người đang chấp hành hình phạt tù trốn khỏi trại giam thì cơ quan Công an
ra quyết định truy nã.
Điều 261. Hoãn chấp hành hình phạt tù
1. Đối với người
bị xử phạt tù đang được tại ngoại, Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án
có thể tự mình hoặc theo đề nghị của Viện kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp
hoặc người bị kết án cho hoãn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp được quy
định tại khoản 1 Điều 61 của Bộ luật hình sự.
2. Chậm nhất là
bảy ngày trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, Chánh án Toà án đã
cho hoãn chấp hành hình phạt tù phải ra quyết định thi hành án và phải gửi ngay
quyết định thi hành án cùng bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật
cho cơ quan Công an cùng cấp và người bị kết án trước khi hết thời hạn hoãn
chấp hành hình phạt tù.
Nếu quá thời hạn
bảy ngày, kể từ ngày hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, người bị kết án
không có mặt tại cơ quan Công an để đi chấp hành hình phạt tù mà không có lý do
chính đáng, thì cơ quan Công an phải áp giải người bị kết án đi chấp hành hình
phạt tù.
Điều 262. Tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù
1. Theo đề nghị
của Viện kiểm sát hoặc của Ban giám thị trại giam nơi người bị kết án đang chấp
hành hình phạt tù:
a) Chánh án Tòa án
cấp tỉnh nơi người đang chấp hành hình phạt tù có thể cho người đó được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong trường hợp quy định tại điểm a khoản 1
Điều 61 và Điều 62 của Bộ luật hình sự;
b) Chánh án Tòa án
đã ra quyết định thi hành án có thể cho người đang chấp hành hình phạt tù được
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong các trường hợp quy định tại các điểm
b, c và d khoản 1 Điều 61 và Điều 62 của Bộ luật hình sự.
Chậm nhất là bảy
ngày trước khi hết thời hạn tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, Chánh án Toà
án đã cho tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù phải ra quyết định thi hành án
đối với phần hình phạt còn lại và phải gửi ngay quyết định đó cho cơ quan Công
an cùng cấp nơi Tòa án đã ra quyết định tạm đình chỉ và người bị kết án.
Nếu quá thời hạn
bảy ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, người bị
kết án không có mặt tại cơ quan Công an để đi chấp hành hình phạt tù mà không
có lý do chính đáng, thì cơ quan Công an phải áp giải người bị kết án đi chấp
hành hình phạt tù.
2. Việc tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
phải do người đã kháng nghị hoặc do Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
quyết định.
Điều 263. Quản lý người được hoãn hoặc
được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
1. Người được hoãn
hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù được giao cho chính quyền xã,
phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc quản lý. Họ
không được tự ý đi nơi khác, nếu không được phép của chính quyền xã, phường,
thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức quản lý họ.
2. Nếu trong thời
gian được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt mà người bị kết án có hành
vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có căn cứ cho rằng người đó bỏ trốn thì
Chánh án Tòa án đã cho hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hủy bỏ
quyết định đó và ra quyết định thi hành án để bắt họ đi chấp hành hình phạt tù.
Quyết định thi hành án được gửi cho cơ quan Công an cùng cấp nơi Tòa án đã ra
quyết định. Ngay sau khi nhận được quyết định thi hành án, cơ quan Công an phải
tổ chức bắt, áp giải người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù.
Điều 264. Thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo, hình phạt cải tạo không giam giữ
Người bị phạt tù
được hưởng án treo và người bị phạt cải tạo không giam giữ được giao cho chính
quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc để
giám sát, giáo dục.
Điều 265. Thi hành hình phạt trục xuất
Người bị phạt trục
xuất phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời
hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định thi hành án. Trong
trường hợp người bị phạt trục xuất phải chấp hành các hình phạt khác hoặc phải
thực hiện các nghĩa vụ khác thì thời hạn họ rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
do pháp luật quy định.
Điều 266. Thi hành hình phạt quản chế
hoặc cấm cư trú
Đối với người bị
phạt quản chế thì sau khi chấp hành xong hình phạt tù, người bị kết án được
giao cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú để thi hành hình phạt
quản chế. Người bị phạt cấm cư trú thì không được tạm trú, thường trú ởnhững
địa phương bị cấm cư trú.
Điều 267. Thi hành hình phạt tiền hoặc
tịch thu tài sản
Quyết định đưa bản
án phạt tiền hoặc tịch thu tài sản ra thi hành phải được gửi cho Viện kiểm sát
cùng cấp, chấp hành viên, người bị kết án và chính quyền xã, phường, thị trấn
nơi người bị kết án cư trú.
Việc tịch thu tài
sản được tiến hành theo quy định tại Điều 40 của Bộ luật hình sự.
Chương XXVIII
GIẢM THỜI
HẠN VÀ MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT
Điều 268. Điều kiện để được giảm thời
hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt
1. Người đang chấp
hành hình phạt tù, cải tạo không giam giữ, cấm cư trú hoặc quản chế có thể được
giảm thời hạn chấp hành hình phạt theo quy định tại các điều 57, 58, 59 và 76
của Bộ luật hình sự; nếu họ chưa chấp hành hình phạt thì có thể được miễn chấp
hành toàn bộ hình phạt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 57 của Bộ
luật hình sự.
Người đang được
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù có thể được miễn chấp hành hình phạt còn
lại theo quy định tại khoản 4 Điều 57 của Bộ luật hình sự.
Người đã chấp hành
được một phần hình phạt tiền có thể được miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại
theo quy định tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 của Bộ luật hình sự.
2. Người bị phạt
tù được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách theo quy định
tại Điều 60 của Bộ luật hình sự.
Điều 269. Thủ tục giảm thời hạn hoặc
miễn chấp hành hình phạt
1. Tòa án có thẩm
quyền quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù là Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án chấp hành hình phạt.
Tòa án có thẩm
quyền quyết định miễn chấp hành hình phạt tù là Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa
án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc.
Việc giảm thời hạn
hoặc miễn chấp hành các hình phạt khác hoặc giảm thời gian thử thách thuộc thẩm
quyền quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực nơi
người bị kết án chấp hành hình phạt hoặc chịu thử thách.
2. Hồ sơ đề nghị xét
miễn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, miễn chấp hành toàn bộ hoặc
phần hình phạt tù còn lại, miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại phải có đề
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp.
Hồ sơ đề nghị xét
giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù phải có đề nghị của cơ quan thi hành hình
phạt tù.
Hồ sơ đề nghị xét
giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ phải có đề nghị của cơ
quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao nhiệm vụ trực tiếp giám
sát, giáo dục.
Hồ sơ đề nghị xét
giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt khác hoặc rút ngắn thời gian thử thách của
án treo phải có đề nghị hoặc nhận xét của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành
án quy định tại Điều 257 của Bộ luật này.
3. Khi Tòa án xét
giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt, một thành viên của Tòa án trình
bày vấn đề cần được xem xét, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Tòa án ra
quyết định chấp nhận hoặc bác đề nghị giảm thời hạn, miễn chấp hành hình phạt
hoặc rút ngắn thời gian thử thách.
Chương XXIX
XÓA ÁN TÍCH
Điều 270. Đương nhiên xóa án tích
Theo yêu cầu của
người được đương nhiên xóa án tích quy định tại Điều 64 của Bộ luật hình sự,
Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm vụ án cấp giấy chứng nhận là họ đã được xóa án
tích.
Điều 271. Xóa án tích do Toà án quyết
định
1. Trong những
trường hợp quy định tại Điều 65 và Điều 66 của Bộ luật hình sự, việc xóa án
tích do Toà án quyết định. Người bị kết án phải có đơn gửi Toà án đã xử sơ thẩm
vụ án kèm theo nhận xét của chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ
chức nơi họ cư trú hoặc làm việc.
2. Chánh án Toà án
đã xử sơ thẩm chuyển tài liệu về việc xin xoá án tích cho Viện kiểm sát cùng
cấp để phát biểu ý kiến bằng văn bản. Nếu xét thấy đủ điều kiện thì Chánh án ra
quyết định xóa án tích; trong trường hợp chưa đủ điều kiện thì quyết định bác
đơn xin xóa án tích.
Phần thứ sáu
XÉT LẠI BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH ĐÃ CÓ HIỆU
LỰC PHÁP LUẬT
Chương XXX
THỦ TỤC GIÁM
ĐỐC THẨM
Điều 272. Tính chất của giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là
xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì
phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án.
Điều 273. Căn cứ để kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm
Bản án hoặc quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Việc điều tra
xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ;
2. Kết luận trong
bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
3. Có sự vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử;
4. Có những sai
lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự.
Điều 274. Phát hiện bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
Người bị kết án,
cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật
trong các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo
cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 275 của Bộ luật này.
Trong trường hợp
phát hiện thấy những vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật, Viện kiểm sát, Tòa án phải thông báo cho người có
quyền kháng nghị quy định tại Điều 275 của Bộ luật này.
Điều 275. Những người có quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1. Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao.
2. Chánh án Tòa án
quân sự trung ương và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới.
3. Chánh án Tòa án
nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa
án quân sự cấp quân khu và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án cấp dưới.
Điều 276. Tạm đình chỉ thi hành bản án
hoặc quyết định bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Những người đã
kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định
tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định đó.
Quyết định tạm
đình chỉ thi hành bản án phải gửi cho Toà án, Viện kiểm sát nơi đã xử sơ thẩm
và cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Điều 277. Kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm
1. Kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm phải nêu rõ lý do và được gửi cho:
a) Tòa án đã ra
bản án hoặc quyết định bị kháng nghị;
b) Tòa án sẽ xét
xử giám đốc thẩm;
c) Người bị kết án
và những người có quyền và lợi íích liên quan đến việc kháng nghị.
2. Nếu không có
căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, thì trước khi hết thời hạn
kháng nghị quy định tại Điều 278 của Bộ luật này, người có quyền kháng nghị
phải trả lời cho người hoặc cơ quan, tổ chức đã phát hiện biết rõ lý do của
việc không kháng nghị.
3. Trước khi bắt
đầu phiên tòa giám đốc thẩm, người đã kháng nghị có quyền bổ sung kháng nghị
nếu chưa hết thời hạn kháng nghị quy định tại Điều 278 của Bộ luật này hoặc rút
kháng nghị.
Điều 278. Thời hạn kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm
1. Việc kháng nghị
theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn
một năm, kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật.
2. Việc kháng nghị
theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, kể
cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.
3. Việc kháng nghị
về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự.
Điều 279. Thẩm quyền giám đốc thẩm
1. ủy ban Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân
sự cấp quân khu giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án quân sự khu vực.
2. Tòa hình sự Tòa
án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương giám đốc thẩm
những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp
quân khu.
3. Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự trung ương, của Toà hình sự, các Toà phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao bị kháng nghị.
4. Những bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án hình sự thuộc thẩm
quyền giám đốc thẩm của các cấp khác nhau được quy định tại các khoản 1, 2 và 3
của Điều này thì cấp có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.
Điều 280. Những người tham gia phiên tòa
giám đốc thẩm
Phiên tòa giám đốc
thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp.
Khi xét thấy cần
thiết, Tòa án phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa và có thể triệu
tập những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia
phiên tòa giám đốc thẩm.
Điều 281. Thành phần Hội đồng giám đốc
thẩm
1. Hội đồng giám
đốc thẩm Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao hoặc Tòa án quân sự trung ương gồm
ba Thẩm phán. Nếu Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban Thẩm phán
Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
giám đốc thẩm thì phải có íít nhất hai phần ba tổng số thành viên của Ủy ban
Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán tham gia xét xử.
Quyết định giám
đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán phải được quá nửa tổng số
thành viên của Ủy ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán tán thành.
2. Tại phiên tòa
giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban Thẩm phán
Tòa án quân sự cấp quân khu, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi
biểu quyết về nội dung kháng nghị thì phải biểu quyết theo trình tự những ý
kiến đồng ý với kháng nghị, những ý kiến không đồng ý với kháng nghị. Nếu không
có loại ý kiến nào được quá nửa tổng số thành viên của Ủy ban Thẩm phán, Hội
đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành, thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn ba
mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa thì Ủy ban Thẩm phán, Hội
đồng Thẩm phán phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án với sự tham gia của toàn thể
các thành viên.
Điều 282. Chuẩn bị phiên tòa và thủ tục
phiên tòa giám đốc thẩm
1. Chánh án Tòa án
phân công một Thẩm phán làm bản thuyết trình về vụ án tại phiên tòa. Bản thuyết
trình tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết định của các cấp Tòa án, nội
dung của kháng nghị. Bản thuyết trình phải được gửi trước cho các thành viên
Hội đồng chậm nhất là bảy ngày trước ngày mở phiên tòa giám đốc thẩm.
2. Tại phiên tòa,
một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm trình bày bản thuyết trình về vụ án.
Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm phát biểu ý kiến và đại diện Viện
kiểm sát phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Nếu đã triệu tập
người bị kết án, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
việc kháng nghị thì những người này được trình bày ý kiến trước khi đại diện
Viện kiểm sát phát biểu. Trong trường hợp họ vắng mặt thì Hội đồng giám đốc
thẩm vẫn có thể tiến hành xét xử.
Điều 283. Thời hạn giám đốc thẩm
Phiên tòa giám đốc
thẩm phải được tiến hành trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận được kháng
nghị.
Điều 284. Phạm vi giám đốc thẩm
Hội đồng giám đốc
thẩm phải xem xét toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung của kháng
nghị.
Điều 285. Thẩm quyền của Hội đồng giám
đốc thẩm
Hội đồng giám đốc
thẩm có quyền ra quyết định :
1. Không chấp nhận
kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
2. Hủy bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án ;
3. Hủy bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.
Điều 286. Hủy bản án hoặc quyết định đã
có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án
Hội đồng giám đốc
thẩm hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án, nếu
có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của Bộ luật này.
Điều 287. Hủy bản án hoặc quyết định đã
có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại
Hội đồng giám đốc
thẩm hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để điều
tra lại hoặc xét xử lại, nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 273
của Bộ luật này. Nếu cần xét xử lại thì tùy trường hợp, Hội đồng giám đốc thẩm
có thể quyết định xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm.
Trong trường hợp
hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc để xét xử lại và
xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, thì Hội đồng giám đốc thẩm
ra lệnh tạm giam cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án thụ lý lại vụ án.
Điều 288. Hiệu lực của quyết định giám
đốc thẩm và việc giao quyết định giám đốc thẩm
1. Quyết định của
Hội đồng giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
2. Trong thời hạn
mười ngày, kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng giám đốc thẩm phải gửi quyết định
giám đốc thẩm cho người bị kết án, người kháng nghị, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ
quan Công an nơi đã xử sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, Cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc.
Điều 289. Điều tra lại, xét xử lại vụ án
sau khi Hội đồng giám đốc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định
Nếu Hội đồng giám
đốc thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều
tra lại, thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ
án phải được chuyển cho Viện kiểm sát cùng cấp để điều tra lại theo thủ tục
chung.
Nếu Hội đồng giám
đốc thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét
xử lại vụ án ở cấp sơ thẩm hoặc ở cấp phúc thẩm thì trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Tòa án có thẩm
quyền để xét xử lại theo thủ tục chung.
Chương XXXI
THỦ TỤC TÁI
THẨM
Điều 290. Tính chất của tái thẩm
Thủ tục tái thẩm
được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị
kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản
nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án
hoặc quyết định đó.
Điều 291. Những căn cứ để kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm
Những tình tiết
được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm là:
1. Lời khai của
người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những
điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật;
2. Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị
xét xử sai;
3. Vật chứng, biên
bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác
trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;
4. Những tình tiết
khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật.
Điều 292. Thông báo và xác minh những
tình tiết mới được phát hiện
1. Người bị kết
án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những tình tiết mới của
vụ án và báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm
quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó.
2. Nếu có một
trong những căn cứ quy định tại Điều 291 của Bộ luật này thì Viện trưởng Viện
kiểm sát ra quyết định kháng nghị tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có
thẩm quyền. Nếu không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời cho cơ
quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.
Điều 293. Những người có quyền kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm
1. Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối
với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp,
trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2. Viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối
với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự
cấp dưới.
3. Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối
với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
cấp huyện. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án quân sự khu vực.
4. Bản kháng nghị
của những người quy định tại Điều này phải được gửi cho người bị kết án và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị.
Điều 294. Tạm đình chỉ thi hành bản án
hoặc quyết định đã bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Những người đã
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc
quyết định bị kháng nghị.
Điều 295. Thời hạn kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm
1. Tái thẩm theo
hướng không có lợi cho người bị kết án phải tiến hành trong thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 23 của Bộ luật hình sự và thời hạn kháng
nghị không được quá một năm, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình
tiết mới được phát hiện.
2. Tái thẩm theo
hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và được tiến
hành trong cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.
3. Việc kháng nghị
về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự.
Điều 296. Thẩm quyền tái thẩm
1. ủy ban Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự
cấp quân khu tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án quân sự khu vực.
2. Tòa hình sự Tòa
án nhân dân tối cao tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương tái thẩm bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu.
3. Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án quân sự trung ương, Toà hình sự, các Toà phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao.
Điều 297. Việc tiến hành tái thẩm
Những quy định tại
các điều 280, 281, 282 và 283 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với việc
tái thẩm.
Điều 298. Thẩm quyền của Hội đồng tái
thẩm
Hội đồng tái thẩm
có quyền ra quyết định:
1. Không chấp nhận
kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
2. Hủy bản án hoặc
quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại;
3. Huỷ bản án hoặc
quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án.
Điều 299. Hiệu lực của quyết định tái
thẩm và việc giao quyết định tái thẩm
1. Quyết định của
Hội đồng tái thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
2. Trong thời hạn
mười ngày, kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng tái thẩm phải gửi quyết định tái
thẩm cho người bị kết án, người kháng nghị, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Công
an nơi đã xử sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng
nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc.
Điều 300. Điều tra lại hoặc xét xử lại
vụ án
1. Nếu Hội đồng
tái thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều
tra lại thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ án
phải được chuyển cho Viện kiểm sát có thẩm quyền để điều tra lại theo thủ tục
chung.
2. Nếu Hội đồng
tái thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét
xử sơ thẩm lại vụ án thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết
định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Tòa án có thẩm quyền để xét xử lại theo
thủ tục chung.
Phần thứ bảy
THỦ TỤC ĐẶC
BIỆT
Chương XXXII
THỦ TỤC TỐ
TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Điều 301. Phạm vi áp dụng
Thủ tục tố tụng
đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên
được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác
của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này.
Điều 302. Điều tra, truy tố và xét xử
1. Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên phạm
tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục
cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành
niên.
2. Khi tiến hành
điều tra, truy tố và xét xử cần phải xác định rõ:
a) Tuổi, trình độ
phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của
người chưa thành niên;
b) Điều kiện sinh
sống và giáo dục;
c) Có hay không có
người thành niên xúi giục;
d) Nguyên nhân và
điều kiện phạm tội.
Điều 303. Bắt, tạm giữ, tạm giam
1. Người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy
định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong
những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy
định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong
những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
3. Cơ quan ra lệnh
bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người
đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.
Điều 304. Việc giám sát đối với người
chưa thành niên phạm tội
1. Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao người chưa thành niên phạm
tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của
người chưa thành niên phạm tội khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố
tụng.
2. Người được giao
nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người chưa thành niên, theo dõi
tư cách, đạo đức và giáo dục người đó.
Điều 305. Bào chữa
1. Người đại diện
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể
lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo.
2. Trong trường
hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ
không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ
hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận
cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.
Điều 306. Việc tham gia tố tụng của gia
đình, nhà trường, tổ chức
1. Đại diện của
gia đình người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà
trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo học tập, lao động và sinh sống có quyền và nghĩa vụ tham
gia tố tụng theo quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án.
2. Trong trường
hợp người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là
người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những
trường hợp cần thiết khác, thì việc lấy lời khai, hỏi cung những người này phải
có mặt đại diện của gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà
không có lý do chính đáng. Đại diện gia đình có thể hỏi người bị tạm giữ, bị
can nếu được Điều tra viên đồng ý; được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu
nại; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra.
3. Tại phiên toà
xét xử bị cáo là người chưa thành niên phải có mặt đại diện của gia đình bị
cáo, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính
đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức.
Đại diện của gia
đình bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức tham gia phiên toà có quyền đưa
ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; tham
gia tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng và các quyết định của Toà án.
Điều 307. Xét xử
1. Thành phần Hội
đồng xét xử phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh.
Trong trường hợp
cần thiết, Tòa án có thể quyết định xét xử kín.
2. Khi xét xử, nếu
thấy không cần thiết phải quyết định hình phạt đối với bị cáo thì Tòa án áp
dụng một trong những biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70 của Bộ luật hình
sự.
Điều 308. Chấp hành hình phạt tù
1. Người chưa
thành niên phạm tội chấp hành hình phạt tù theo chế độ giam giữ riêng do pháp
luật quy định.
Không được giam
giữ chung người chưa thành niên với người thành niên.
2. Người chưa
thành niên bị kết án phải được học nghề hoặc học văn hóa trong thời gian chấp
hành hình phạt tù.
3. Nếu người chưa
thành niên đang chấp hành hình phạt tù đã đủ mười tám tuổi thì phải chuyển
người đó sang chế độ giam giữ người đã thành niên.
4. Đối với người
chưa thành niên đã chấp hành xong hình phạt tù, Ban giám thị trại giam phải
phối hợp với chính quyền và tổ chức xã hội ởxã, phường, thị trấn để giúp người
đó trở về sống bình thường trong xã hội.
Điều 309. Chấm dứt việc chấp hành biện
pháp tư pháp, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt
Người chưa thành
niên bị kết án có thể được chấm dứt việc chấp hành biện pháp tư pháp, giảm hoặc
miễn chấp hành hình phạt khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 hoặc Điều 76
của Bộ luật hình sự.
Điều 310. Xóa án tích
Việc xóa án tích
đối với người chưa thành niên phạm tội khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 77
của Bộ luật hình sự được tiến hành theo thủ tục chung.
Chương XXXIII
THỦ TỤC ÁP
DỤNG BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH
Điều 311. Điều kiện và thẩm quyền áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
1. Khi có căn cứ
cho rằng người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách
nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 13 của Bộ luật hình sự thì tùy theo giai
đoạn tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải trưng cầu giám định
pháp y.
2. Căn cứ vào kết
luận của Hội đồng giám định pháp y, Viện kiểm sát quyết định áp dụng biện pháp
bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn điều tra, truy tố; Tòa án quyết định áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn xét xử và thi hành án.
Điều 312. Điều tra
1. Đối với vụ án
có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 311 của Bộ luật này, Cơ quan điều tra phải
làm sáng tỏ:
a) Hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã xảy ra;
b) Tình trạng tâm
thần và bệnh tâm thần của người có hành vi nguy hiểm cho xã hội;
c) Người có hành
vi nguy hiểm cho xã hội có mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của
mình hay không.
2. Khi tiến hành
tố tụng, Cơ quan điều tra phải bảo đảm có người bào chữa tham gia tố tụng từ
khi xác định là người có hành vi nguy hiểm cho xã hội mắc bệnh tâm thần. Đại
diện hợp pháp của người đó có thể tham gia tố tụng trong trường hợp cần thiết.
Điều 313. Quyết định của Viện kiểm sát
sau khi kết thúc điều tra
Sau khi nhận được
hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát có thể ra một trong những
quyết định sau đây:
1. Tạm đình chỉ
hoặc đình chỉ vụ án;
2. Đình chỉ vụ án
và quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
3. Truy tố bị can
trước Tòa án.
Điều 314. Xét xử
1. Tòa án có thể
ra một trong những quyết định sau đây:
a) Miễn trách
nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
b) Đình chỉ vụ án
và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
c) Tạm đình chỉ vụ
án và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
d) Trả hồ sơ để
điều tra lại hoặc điều tra bổ sung.
2. Ngoài quyết
định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, Tòa án có thể giải quyết vấn đề bồi
thường thiệt hại hoặc vấn đề khác liên quan đến vụ án.
Điều 315. Áp dụng biện pháp bắt buộc
chữa bệnh đối với người chấp hành hình phạt tù
Trong trường hợp
có căn cứ để cho rằng người đang chấp hành hình phạt tù mắc bệnh tâm thần hoặc
một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù, Chánh án Toà án nhân
dân cấp tỉnh hoặc Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án chấp
hành hình phạt phải trưng cầu giám định pháp y.
Căn cứ vào kết
luận của Hội đồng giám định pháp y, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc
Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án chấp hành hình phạt có
thể quyết định đưa họ vào một cơ sở chuyên khoa y tế để bắt buộc chữa bệnh. Sau
khi khỏi bệnh, người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt, nếu không có lý do
để miễn chấp hành hình phạt.
Điều 316. Khiếu nại, kháng nghị, kháng
cáo
1. Khi quyết định
của Viện kiểm sát về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh bị khiếu nại thì
vụ án phải được đưa ra xét xử sơ thẩm ởTòa án cùng cấp.
2. Việc kháng nghị
hoặc kháng cáo đối với quyết định của Tòa án về việc áp dụng biện pháp bắt buộc
chữa bệnh được tiến hành như đối với bản án sơ thẩm.
3. Quyết định áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh của Tòa án vẫn có hiệu lực thi hành mặc dù có
khiếu nại, kháng nghị, kháng cáo.
Điều 317. Thực hiện, đình chỉ thực hiện
biện pháp bắt buộc chữa bệnh
1. Biện pháp bắt
buộc chữa bệnh được thực hiện ởmột cơ sở chuyên khoa y tế do Viện kiểm sát hoặc
Tòa án chỉ định.
2. Khi có báo cáo
của cơ sở chữa bệnh, đơn yêu cầu của người thân thích người bị bắt buộc chữa
bệnh hoặc yêu cầu của Viện kiểm sát thì trên cơ sở kết luận của Hội đồng giám
định y khoa, Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp bắt
buộc chữa bệnh có thể ra quyết định đình chỉ thực hiện biện pháp bắt buộc chữa
bệnh, đồng thời có thể quyết định phục hồi tố tụng đã bị tạm đình chỉ.
Chương XXXIV
THỦ TỤC RÚT
GỌN
Điều 318. Phạm vi áp dụng thủ tục rút
gọn
Thủ tục rút gọn
đối với việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm được áp dụng theo quy định của
Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với
những quy định của Chương này.
Điều 319. Điều kiện áp dụng thủ tục rút
gọn
Thủ tục rút gọn
chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Người thực hiện
hành vi phạm tội bị bắt quả tang;
2. Sự việc phạm
tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
3. Tội phạm đã
thực hiện là tội phạm íít nghiêm trọng;
4. Người phạm tội
có căn cước, lai lịch rõ ràng.
Điều 320. Quyết định áp dụng thủ tục rút
gọn
1. Sau khi khởi tố
vụ án, theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều
kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra quyết định
áp dụng thủ tục rút gọn.
2. Quyết định áp
dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người
đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng
thủ tục rút gọn.
3. Quyết định áp
dụng thủ tục rút gọn có thể bị khiếu nại. Bị can hoặc người đại diện hợp pháp
của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn; thời hiệu khiếu
nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến Viện
kiểm sát đã ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và phải được giải quyết trong
thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Điều 321. Điều tra
1. Thời hạn điều
tra theo thủ tục rút gọn là mười hai ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ
án.
2. Khi kết thúc
điều tra, Cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết
định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát.
Điều 322. Tạm giữ, tạm giam để điều tra,
truy tố
1. Căn cứ, thẩm
quyền và thủ tục tạm giữ, tạm giam được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.
2. Thời hạn tạm
giữ không được quá ba ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
3. Thời hạn tạm
giam để điều tra, truy tố không được quá mười sáu ngày.
Điều 323. Quyết định việc truy tố
1. Trong thời hạn
bốn ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải ra một trong
những quyết định sau đây:
a) Truy tố bị can
trước Tòa án bằng quyết định truy tố;
b) Trả hồ sơ để
điều tra bổ sung;
c) Tạm đình chỉ vụ
án;
d) Đình chỉ vụ án.
2. Trong trường
hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b
hoặc điểm c khoản 1 Điều này, thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết
định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.
Điều 324. Xét xử
1. Trong thời hạn
bảy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Đưa vụ án ra
xét xử;
b) Trả hồ sơ để
điều tra bổ sung;
c) Tạm đình chỉ vụ
án;
d) Đình chỉ vụ án.
2. Trong trường
hợp ra quyết định đưa vụ án ra xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì
trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Toà án phải mở phiên toà xét
xử vụ án. Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành theo thủ tục chung.
3. Trong trường
hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b
hoặc điểm c khoản 1 Điều này thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và vụ án
được giải quyết theo thủ tục chung.
4. Trong trường
hợp cần thiết, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc
xét xử. Thời hạn tạm giam không được quá mười bốn ngày.
5. Việc xét xử
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ án đã xét xử sơ thẩm theo thủ tục
rút gọn được tiến hành theo thủ tục chung.
Chương XXXV
KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều 325. Người có quyền khiếu nại
Cơ quan, tổ chức,
cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là
trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi íích hợp pháp của mình.
Việc kháng cáo đối
với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, khiếu nại đối với
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì không giải quyết theo quy định
tại Chương này mà được giải quyết theo quy định tại các chương XXII, XXIV, XX
và XXI của Bộ luật này.
Điều 326. Quyền và nghĩa vụ của người
khiếu nại
1. Người khiếu nại
có quyền:
a) Tự mình khiếu
nại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại;
b) Khiếu nại trong
bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án hình sự;
c) Rút khiếu nại
trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại;
d) Được nhận văn
bản trả lời về việc giải quyết khiếu nại;
đ) Được khôi phục
quyền, lợi íích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật.
2. Người khiếu nại
có nghĩa vụ:
a) Trình bày trung
thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu
trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp các thông
tin, tài liệu đó;
b) Chấp hành kết
quả giải quyết khiếu nại.
Điều 327. Quyền và nghĩa vụ của người bị
khiếu nại
1. Người bị khiếu
nại có quyền:
a) Đưa ra bằng
chứng về tính hợp pháp của quyết định, hành vi tố tụng bị khiếu nại;
b) Được nhận văn
bản giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi tố tụng của mình.
2. Người bị khiếu
nại có nghĩa vụ:
a) Giải trình về
quyết định, hành vi tố tụng bị khiếu nại, cung cấp các thông tin, tài liệu liên
quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b) Chấp hành kết
quả giải quyết khiếu nại;
c) Bồi thường
thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật của
mình gây ra theo quy định của pháp luật.
Điều 328. Thời hiệu khiếu nại
Thời hiệu khiếu
nại là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định, hành vi tố
tụng mà người khiếu nại cho rằng có vi phạm pháp luật.
Trong trường hợp
vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ởnơi xa hoặc vì những trở
ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại
theo đúng thời hiệu, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu
khiếu nại.
Điều 329. Thẩm quyền và thời hạn giải
quyết khiếu nại đối với Điều tra viên, Phó Thủ trưởng và Thủ trưởng Cơ quan
điều tra
Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra do Thủ
trưởng Cơ quan điều tra xem xét, giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu
nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn bảy ngày, kể
từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét, giải quyết.
Viện kiểm sát cùng cấp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra và các quyết định tố tụng
của Cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát phê chuẩn do Viện kiểm sát cùng cấp
giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không
đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 330. Thẩm quyền và thời hạn giải
quyết khiếu nại đối với Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng và Viện trưởng Viện kiểm
sát
Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên do Viện
trưởng Viện kiểm sát giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được
khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền
khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày,
kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét,
giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối
cùng.
Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu
nại. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 331. Thẩm quyền và thời hạn giải
quyết khiếu nại đối với Thẩm phán, Phó Chánh án và Chánh án Toà án
Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của Thẩm phán, Phó Chánh án trước khi mở phiên toà do
Chánh án Toà án giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu
nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu
nại đến Toà án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại, Toà án cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Toà án
cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của Chánh án Toà án trước khi mở phiên tòa do Toà án cấp
trên trực tiếp giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
khiếu nại. Toà án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 332. Thẩm quyền và thời hạn giải
quyết khiếu nại đối với người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra
Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động
điều tra do Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố giải quyết trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết
thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có
thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết
định tố tụng đã được Viện kiểm sát phê chuẩn do Viện kiểm sát đã phê chuẩn
quyết định đó giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu
nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu
nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải
quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 333. Thời hạn giải quyết khiếu nại
liên quan đến việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam
Khiếu nại liên
quan đến việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam phải được Viện kiểm sát
xem xét, giải quyết ngay. Trong trường hợp cần phải có thời gian để xác minh
thêm thì thời hạn giải quyết không được quá ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu
nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu
nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 334. Người có quyền tố cáo
Công dân có quyền
tố cáo với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của bất
kỳ người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây
thiệt hại lợi íích của Nhà nước, quyền, lợi íích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức.
Điều 335. Quyền và nghĩa vụ của người tố
cáo
1. Người tố cáo có
quyền:
a) Gửi đơn hoặc
trực tiếp tố cáo với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền;
b) Yêu cầu giữ bí
mật họ tên, địa chỉ, bút tích của mình;
c) Yêu cầu được
thông báo kết quả giải quyết tố cáo;
d) Yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập, trả thù.
2. Người tố cáo có
nghĩa vụ:
a) Trình bày trung
thực về nội dung tố cáo;
b) Nêu rõ họ tên,
địa chỉ của mình;
c) Chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
Điều 336. Quyền và nghĩa vụ của người bị
tố cáo
1. Người bị tố cáo
có quyền:
a) Được thông báo
về nội dung tố cáo;
b) Đưa ra bằng
chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật;
c) Được khôi phục
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được phục hồi danh dự, được bồi thường
thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra;
d) Yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo sai sự thật.
2. Người bị tố cáo
có nghĩa vụ:
a) Giải trình về
hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, cá nhân
có thẩm quyền yêu cầu;
b) Chấp hành kết
quả xử lý tố cáo của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền;
c) Bồi thường
thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật của mình gây ra.
Điều 337. Thẩm quyền và thời hạn giải
quyết tố cáo
1. Tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng nào thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải
quyết.
Trong trường hợp
người bị tố cáo là Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát,
Chánh án Toà án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án cấp trên trực tiếp
có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền
tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố xem
xét, giải quyết.
Thời hạn giải
quyết tố cáo không quá sáu mươi ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức
tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá chín mươi
ngày.
2. Tố cáo hành vi
vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm thì được giải quyết theo quy định tại
Điều 103 của Bộ luật này.
3. Tố cáo liên
quan đến hành vi bắt, tạm giữ, tạm giam phải được Viện kiểm sát xem xét, giải
quyết ngay. Trong trường hợp phải xác minh thêm thì thời hạn không quá ba ngày.
Điều 338. Trách nhiệm của người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo
Cơ quan, cá nhân
có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp
nhận, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật khiếu nại, tố cáo và thông báo bằng
văn bản kết quả giải quyết cho người đã khiếu nại, tố cáo biết; xử lý nghiêm
minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể
xảy ra; bảo đảm kết quả giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết của mình.
Người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại, tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm trong việc
giải quyết, giải quyết trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà
bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì
phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 339. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
1. Viện kiểm sát
yêu cầu Cơ quan điều tra, Tòa án cùng cấp và cấp dưới, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra:
a) Ra văn bản giải
quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định tại Chương này;
b) Kiểm tra việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình và cấp dưới; thông báo kết quả kiểm
tra cho Viện kiểm sát;
c) Cung cấp hồ sơ,
tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện kiểm sát.
2. Viện kiểm sát
trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Cơ quan điều tra, Tòa
án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra.
Phần thứ tám
HỢP TÁC QUỐC
TẾ
Chương XXXVI
NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều 340. Nguyên tắc hợp tác quốc tế
trong hoạt động tố tụng hình sự
Hợp tác quốc tế
trong hoạt động tố tụng hình sự giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các cơ quan có thẩm quyền
tương ứng của nước ngoài được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế.
Hợp tác quốc tế
trong hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành phù hợp với các điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và quy định của
pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong trường hợp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập các điều
ước quốc tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình
sự được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế.
Điều 341. Thực hiện tương trợ tư pháp
Khi thực hiện
tương trợ tư pháp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam áp dụng những quy
định của điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập và quy định của Bộ luật này.
Điều 342. Từ chối thực hiện yêu cầu tương
trợ tư pháp
Các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể từ
chối thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp trong hoạt động tố tụng hình sự, nếu
thuộc một trong những trường hợp sau đây:
1. Yêu cầu tương
trợ tư pháp không phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
2. Việc thực hiện
yêu cầu tương trợ tư pháp gây phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia hoặc
lợi íích quan trọng khác của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chương XXXVII
DẪN ĐỘ VÀ
CHUYỂN GIAO HỒ SƠ, TÀI LIỆU, VẬT CHỨNG CỦA VỤ ÁN
Điều 343. Dẫn độ để truy cứu trách nhiệm
hình sự hoặc thi hành án
Căn cứ vào các
điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập hoặc theo nguyên tắc
có đi có lại, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
có thể:
1. Yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài dẫn độ một người có hành vi phạm tội
hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật cho nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc để chấp hành hình
phạt;
2. Thực hiện việc
dẫn độ người nước ngoài có hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã
có hiệu lực pháp luật đang ở trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam cho quốc gia yêu cầu để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc để chấp hành hình
phạt.
Điều 344. Từ chối dẫn độ
1. Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ chối dẫn
độ, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
a) Người bị yêu
cầu dẫn độ là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Theo quy định
của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì người bị yêu cầu dẫn
độ không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chấp hành hình phạt do đã hết
thời hiệu hoặc vì những lý do hợp pháp khác;
c) Người bị yêu
cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự đã bị Toà án nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật về hành vi phạm tội
được nêu trong yêu cầu dẫn độ hoặc vụ án đã bị đình chỉ theo quy định của Bộ
luật này;
d) Người bị yêu
cầu dẫn độ là người đang cư trú ởViệt Nam vì lý do có khả năng bị truy bức ở quốc
gia yêu cầu dẫn độ do có sự phân biệt về chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, dân
tộc, thành phần xã hội hoặc quan điểm chính trị.
2. Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể từ
chối dẫn độ, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
a) Theo pháp luật
hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì hành vi mà người bị yêu cầu
dẫn độ thực hiện không phải là tội phạm;
b) Người bị yêu
cầu dẫn độ đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự ởViệt Nam về hành vi
được nêu trong yêu cầu dẫn độ.
3. Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ chối dẫn
độ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này có trách nhiệm thông báo cho
cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài đã gửi yêu cầu dẫn độ biết.
Điều 345. Việc chuyển giao hồ sơ, vật
chứng của vụ án
1. Đối với vụ án
có người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, nếu việc tiến hành tố tụng không thể thực hiện được vì người đó đã ra nước
ngoài thì cơ quan có thẩm quyền tố tụng đang thụ lý vụ án có thể chuyển hồ sơ
vụ án đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao để làm thủ tục chuyển giao cho cơ quan
có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài.
2. Khi chuyển giao
hồ sơ vụ án cho cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài, cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể
chuyển giao cả vật chứng của vụ án.
Điều 346. Việc giao nhận, chuyển giao
tài liệu, đồ vật, tiền liên quan đến vụ án
1. Việc giao nhận
tài liệu liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và theo
quy định của Bộ luật này.
2. Việc chuyển
giao đồ vật, tiền liên quan đến vụ án ra ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được thực
hiện theo quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003./.