Thứ nhất,
Luật Hôn nhân gia đinh 2014 quy định "
Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận."
- Trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân gia đình 2014
- Trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
Thứ hai, tài sản chung của vợ chồng chia đôi, tuy nhiên có tính đến các yếu tố sau:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
Là tình trạng năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ hoặc chồng. Khi chia tài sản bên khó khăn hơn sẽ được chia phần tài sản nhiều hơn hoặc ưu tiên nhận loại tài sản để đảm bảo cuộc sống của mình.
Nếu như một bên vợ hoặc chồng có hoàn cảnh khó khăn hơn sẽ được xem xét được hơn một nửa tài sản chung khi phân chia.
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
Là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, sức lao động của vợ hoặc chồng trong việc tạo lập duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với vợ hoặc chồng đi làm.
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
là việc chia tài sản chung phải đảm bảo cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hoạt động; cho vợ, chồng tiếp tục sản xuất kinh doanh và phải thanh toán cho bên kia số tiền chênh lệch.
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Là lỗi của vợ chồng vi phạm nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn. Khi phân chia tài sản chung cũng sẽ tính đến các yếu tố lỗi của mỗi bên, đã vi phạm các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Ví dụ như một bên vợ hoặc chồng ngoại tình thì đó cũng là một căn cứ để chứng minh yếu tố lỗi vì đã không chung thủy với vợ hoặc chồng trong thời gian hôn nhân.
Thứ ba, tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Thứ tư, tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Thứ năm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Đây là quy định mang tính nhân văn khi đã bảo vệ các quyền và lợi ích của phụ nữ và con. Đặc biệt là người phụ nữ vì đa số họ là những người chịu thiệt thòi khi ly hôn. Do đó, quy định này là hoàn toàn hợp lý.
CÔNG TY LUẬT TNHH QUỐC TẾ HỒNG THÁI VÀ ĐỒNG NGHIỆP TRÂN TRỌNG!
Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 19006248 hoặc E-mail: luathongthai@gmail.com
Trụ sở chính:
LK9-38 Tổng cục 5, Tân Triều, Hà Nội (cuối đường Chiến Thắng, Thanh Xuân)