Pháp luật quy định như thế nào về hôn nhân thực tế.
Hôn
nhân thực tế là trường hợp nam nữ chung sống với nhau và thỏa mãn những điều kiện
theo quy định của pháp luật nhưng không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn vẫn
được pháp luật công nhận hôn nhân hợp pháp, được giải quyết quyền, lợi ích và
nghĩa vụ như hôn nhân hợp pháp.
Theo
Thông tư 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
03/01/2001 về
việc thi hành luật hôn nhân và gia đình thì những trường hợp hai bên nam nữ
không đăng ký kết hôn vẫn được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế, quyền
và nghĩa vụ được áp dụng như hôn nhân hợp pháp như sau:
Trường
hợp thứ nhất, hai bên nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng, xác lập quan hệ
vợ chồng với nhau trước ngày 03/01/1987.
Các
mối quan hệ hôn nhân của hai bên nam nữ hình thành từ thời điểm Luật Hôn nhân
và gia đình 1986 có hiệu lực là thời điểm pháp luật chưa thật sự đi sâu và phổ
biến trong đời sống của người dân. Những mối quan hệ vợ chồng được hình thành dựa sự tự nguyện và tình cảm của hai bên, dựa
trên phong tục tập quán của mỗi địa phương, và có nhiều cặp vợ chồng không trình
diện với cơ quan chức năng mà chỉ sống chung với nhau mà không có giấy hôn thú.
Nắm bắt được tình hình đó, nhằm bảo đảm sự ổn định về mặt nhân khẩu tại địa
phương, quy định của pháp luật vẫn công nhận những cặp vợ chồng này có hôn nhân
hợp pháp.
Hôn
nhân hợp pháp của những cặp vợ chồng này được tính từ thời điểm hai bên bắt đầu
chung sống với nhau như vợ chồng ví dụ như: ngày hai bên nam nữ tổ chức đám cưới,
kể từ ngày sống chung có người làm chứng của hai bên vợ chồng,vv.. Mặc
dù những thời điểm đó không thật sự rõ ràng để xác định nhưng pháp luật vẫn ghi
nhận để có thể dễ dàng giải quyết khi có tranh chấp. Theo đó, mặc dù họ chưa
làm thủ tục đăng ký kết hôn nhưng họ vẫn được đảm bảo quyền và nghĩa vụ hợp
pháp của vợ chồng; khi làm thủ tục ly hôn hay có tranh chấp về vấn đề gì thì vẫn
được cơ quan chức năng áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết.

Luật sư tư vấn, đại diện ngoài tố tụng - 0982033335
Trường
hợp thứ hai, hai bên nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng sau thời điểm Luật
hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực đến trước ngày 01/01/2001.
Đối
với những trường hợp nam nữ sống chung với nhau kể từ sau khi Luật hôn nhân và
gia đình năm 1986 đến trước thời điểm Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu
lực, mặc dù họ có đủ điều kiện theo quy định của luật để kết hôn nhưng vẫn chưa
làm thủ tục đăng ký thì bắt buộc phải làm thủ tục đăng ký kết hôn lên cơ quan
có thẩm quyền để được công nhận là vợ chồng hợp pháp. Tuy nhiên trong thời điểm
mà họ đăng ký kết hôn sẽ không được mặc định là thời điểm họ được xác lập mối
quan hệ vợ chồng mà quan hệ của họ vẫn được công nhận kể từ ngày họ sống chung
với nhau. Thời điểm họ về ở chung với nhau kể từ thời điểm họ có sự sống chung
với nhau, chăm sóc giúp đỡ và cùng nhau xây dựng gia đình hay tính từ mốc thời
gian tổ chức lễ cưới, về chung sống với nhau có người khác chứng kiến. Theo đó
nếu sống chung với nhau trong khoảng thời gian này mặc dù Luật hôn nhân và gia
đình 1986 đã có hiệu lực nhưng pháp luật vẫn cho các cặp vợ chồng chưa đăng ký
kết hôn một khoảng thời gian hợp lý để kịp thời bổ sung thủ tục này. Trong khoảng
thời gian đó nếu có yêu cầu ly hôn hay giải quyết tranh chấp thì vẫn được áp dụng
theo quy định pháp luật hiện hành để giải quyết. Theo quy định của Thông tư
liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
03/01/2002
thì những trường hợp này phải đăng ký kết hôn trong khoảng thời gian từ thời điểm
ngày 1 tháng 1 năm 2001 đến thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2003.
Nếu
như sau thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2003 mà các cặp vợ chồng không tiến hành
thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn hợp pháp thì họ sẽ không được xem là vợ chồng
theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Theo đó nếu có yêu cầu về thực hiện
thủ tục ly hôn thì không áp dụng luật mà chỉ xử lý về vấn đề tranh chấp quyền
nuôi con và tranh chấp phân chia tài sản.
Như vậy, việc quy định về các trường hợp hôn nhân thực
tế được quy định rõ trong hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm khuyến khích việc
đăng ký kết hôn giữa các bên nam nữ sống chung với nhau, và là cơ sở pháp lý để
giải quyết những khó khăn, vướng mắc gặp phải khi các vấn đề liên quan đến mối
quan hệ hôn nhân này có tranh chấp.