Việc kết hôn vốn là việc hệ trọng, việc đại sự của mỗi người. Vì bất cứ lý do gì mà việc kết hôn bị trì hoãn thì thật sự là rất đáng tiếc cho cả hai bên. Song trên thực tế những sự việc như vậy là hoàn toàn có thể xảy ra. Đơn cử như việc một trong hai bên nam nữ có dự định tiến tới hôn nhân, xong một trong hai bên bị vướng vào vòng lao lý và phải ở tù có nguyện vọng được kết hôn thì pháp luật quy định như thế nào?
Cơ sở pháp
lý:
- Luật Hôn
nhân và gia đình 2012
- Bộ luật
Hình sự 2015
- Luật Hộ tịch
2014
Căn cứ Khoản
1 Điều 44 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tước một số quyền công dân như sau:
“1. Công dân
Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác
trong những trường hợp do Bộ luật này quy định, thì bị tước một hoặc một số quyền
công dân sau đây:
a) Quyền ứng
cử đại biểu cơ quan quyền lực Nhà nước;
b) Quyền làm
việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân
dân.”
Như vậy, quyền
nhân thân trong đó có quyền tự do kết hôn, người bị tù giam không bị tước bỏ theo
quy định của Bộ Luật Hình sự và cũng không bị cấm theo quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình.
Như vậy, nếu
người đang chịu hình phạt tù đủ điều kiện kết hôn theo Điều 8 Luật Hôn nhân và
gia đình 2014 thì hoàn toàn có quyền được kết hôn. Cụ thể các điều kiện để nam
nữ được kết hôn như sau:
a) Nam từ đủ
20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết
hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị
mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết
hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm
a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, gồm:
- Kết hôn giả
tạo, ly hôn giả tạo;
- Tảo hôn,
cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
- Người đang
có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc
chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người
đang có chồng, có vợ;
- Kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những
người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã
từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha
dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng
Ngoài ra,
Nhà nước Việt Nam không thừa nhận hôn nhân giữa người cùng giới tính.
(Nguồn: Internet)
Tuy nhiên
theo quy định tại Điều 18 Luật Hộ tịch năm 2014 về Thủ tục đăng ký kết hôn thì:
- Hai bên
nam, nữ nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ quan đăng ký hộ tịch
và cùng có mặt khi đăng ký kết hôn.
- Ngay sau
khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy đủ điều kiện kết
hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, công chức tư pháp – hộ tịch
ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ ký tên vào Sổ hộ tịch.
Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn; công chức tư pháp – hộ tịch
báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức trao Giấy chứng nhận kết hôn
cho hai bên nam, nữ.
Việc đăng ký
kết hôn là giao dịch không thể ủy quyền mà bắt buộc cả 2 bên phải có mặt để
đăng ký kết hôn. Mặc dù luật không tước quyền kết hôn của những người đang chấp
hành hình phạt tù nhưng họ đang chịu sự quản lý ràng buộc của Nhà nước đồng thời
những quy định bắt buộc về thủ tục đăng ký kết hôn đã vô hình chung làm hạn chế
quyền đăng ký kết hôn của họ. Chính vì vậy, khả năng người đang chấp hành hình
phạt tù có mặt khi đăng ký kết hôn là rất thấp.
CÔNG TY LUẬT TNHH QUỐC TẾ HỒNG THÁI VÀ ĐỒNG NGHIỆP TRÂN TRỌNG!
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006248 hoặc E-mail: luathongthai@gmail.com
Trụ sở chính: LK9-38 Tổng cục 5, Tân Triều, Hà Nội (cuối đường Chiến Thắng, Thanh Xuân).