HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01/2003/NQ-HĐTP
|
Hà Nội, ngày 16 tháng 4 năm 2003
|
NGHỊ
QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM
PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 01/2003/NQ-HĐTP NGÀY 16 THÁNG 4 NĂM 2003 HƯỚNG
DẪN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT MỘT SỐ LOẠI TRANH CHẤP DÂN SỰ, HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
HỘI ĐỒNG THẨM
PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định của pháp luật trong việc giải quyết
các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình;
QUYẾT NGHỊ:
I. ĐỐI VỚI CÁC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1. Tranh chấp hợp đồng dân sự có đặt cọc
Theo quy định tại Điều 130 Bộ luật
Dân sự (sau đây viết tắt là BLDS) thì thoả thuận về đặt cọc là một giao dịch
dân sự; do đó, việc đặt cọc chỉ có hiệu lực khi có đủ các điều kiện quy định tại
Điều 131 BLDS và phải được lập thành văn bản (có thể lập
thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính).
Trong trường hợp có tranh chấp về đặt cọc mà các
bên không có thoả thuận khác về việc xử lý đặt cọc, thì việc xử lý được thực hiện
như sau:
a. Trong trường hợp đặt cọc chỉ để bảo đảm cho
việc giao kết hợp đồng hoặc chỉ để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng hoặc vừa
để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng vừa để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng
thì bên nào có lỗi làm cho hợp đồng không được giao kết hoặc không được thực hiện
hoặc bị vô hiệu, thì phải chịu phạt cọc theo quy định tại khoản
2 Điều 363 BLDS.
b. Trong trường hợp đặt cọc chỉ để bảo đảm cho
việc giao kết hợp đồng, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng mới có sự vi phạm
làm cho hợp đồng không được thực hiện hoặc mới phát hiện hợp đồng bị vô hiệu
thì không phạt cọc. Việc giải quyết tranh chấp về vi phạm hợp đồng hoặc xử lý hợp
đồng vô hiệu được thực hiện theo thủ tục chung.
c. Trong trường hợp các bên có thoả thuận hoặc
pháp luật có quy định điều kiện nếu đặt cọc bị vô hiệu là hợp đồng cũng bị vô
hiệu, thì hợp đồng đương nhiên bị vô hiệu khi đặt cọc đó bị vô hiệu. Việc xử lý
đặt cọc bị vô hiệu và hợp đồng bị vô hiệu được thực hiện theo quy định tại Điều 146 BLDS.
Ví dụ: A và B giao kết hợp đồng mua bán nhà. Khi
giao kết hai bên thoả thuận B (bên mua) phải giao cho A (bên bán) một chiếc xe
ô tô thể thao để đặt cọc bảo đảm cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua
bán nhà ở với điều kiện khi hợp đồng mua bán nhà ở được giao kết và thực hiện
thì chiếc xe ô tô thể thao đó phải được trừ vào tiền mua bán nhà và nếu A không
nhận được chiếc xe ô tô đó do việc đặt cọc bị vô hiệu thì hợp đồng cũng bị vô
hiệu.
Khi bắt đầu thực hiện hợp đồng thì phát hiện chiếc
xe ô tô đó là của ông C (bố B) và ông C không đồng ý cho B lấy chiếc xe ô tô đó
trừ vào tiền mua nhà, có nghĩa là việc đặt cọc bị vô hiệu và do đó trong trường
hợp này hợp đồng mua bán nhà cũng bị vô hiệu.
d. Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các
điểm a và c mục 1 này, nếu cả hai bên cùng có lỗi hoặc trong trường hợp có sự
kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan thì không phạt cọc.
2. Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở
2.1. Điều kiện để công nhận hợp đồng mua bán nhà
ở
Theo quy định tại Điều 131 và Điều
443 BLDS thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng mua bán nhà ở khi hợp đồng mua
bán nhà ở có đủ bốn điều kiện sau đây:
a. Những người tham gia giao kết hợp đồng mua
bán nhà ở phải có năng lực hành vi dân sự;
b. Mục đích và nội dung của hợp đồng mua bán nhà
ở không trái pháp luật, đạo đức xã hội;
c. Những người tham gia giao kết hợp đồng mua
bán nhà ở hoàn toàn tự nguyện;
d. Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành
văn bản, có chứng nhận của Công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực tại thời điểm giao
kết hợp đồng.
Cần chú ý là đối với các tranh chấp giao dịch
dân sự về nhà ở nói chung (trong đó có hợp đồng mua bán nhà ở) được xác lập trước
ngày 01/7/1991 thì áp dụng Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội "về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước
ngày 01/7/1991" và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số
01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Nghị quyết này để
giải quyết.
2.2. Giải quyết một số trường hợp cụ thể của hợp
đồng mua bán nhà ở vô hiệu
a. Hợp đồng mua bán nhà ở vi phạm các điều kiện
được hướng dẫn tại các điểm a, b và c tiểu mục 2.1 mục 2 này.
Khi hợp đồng mua bán nhà ở vi phạm một trong các
điều kiện trên, thì tuỳ từng trường hợp Toà án áp dụng quy định của điều luật
tương ứng từ Điều 136 đến Điều 138, từ Điều
140 đến Điều 145 và Điều 146 BLDS để tuyên bố hợp đồng
mua bán nhà ở vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu.
b. Hợp đồng mua bán nhà ở vi phạm điều kiện được
hướng dẫn tại điểm d tiểu mục 2.1 mục 2 này.
Đối với hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do không
tuân thủ điều kiện về hình thức của hợp đồng, khi có tranh chấp và theo yêu cầu
của một hoặc các bên Toà án áp dụng Điều 139 BLDS để ra quyết
định buộc một hoặc các bên phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn
một tháng, kể từ ngày Toà án ra quyết định thực hiện các thủ tục để hoàn thiện
về hình thức của hợp đồng. Nếu có một bên đương sự vắng mặt thì thời hạn này tính
từ ngày bên đương sự vắng mặt nhận được quyết định của Toà án.
Trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc
có trở ngại khách quan, thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại
khách quan không tính vào thời hạn một tháng đó. Quá thời hạn một tháng mà họ
không đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện các thủ tục để hoàn thiện
về hình thức của hợp đồng thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Bên có lỗi làm
cho hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức vì không thực hiện
theo quyết định của Toà án thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 146 BLDS.
2.3. Thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng
mua bán nhà ở vô hiệu
Thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng mua
bán nhà ở vô hiệu được quy định tại Điều 145 BLDS. Tuy
nhiên cần lưu ý đối với trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu được quy định
tại các điều từ Điều 140 đến Điều 143 BLDS thì thời hạn một
năm được tính từ ngày hợp đồng mua bán nhà ở được chứng nhận công chứng, chứng
thực
2.4. Giải quyết hậu quả của hợp đồng mua bán nhà
ở vô hiệu
a. Xác định lỗi
Khi tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu, thì
về nguyên tắc chung khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu Toà án buộc bên
mua trả lại nhà ở cho bên bán; bên bán nhận lại nhà ở và trả lại những gì đã nhận
cho bên mua nhà. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 146
BLDS bên có lỗi làm cho hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường thiệt hại cho bên kia; do đó, việc xác định lỗi của một hoặc
các bên như sau:
a.1. Một bên bị coi là có lỗi nếu bên đó có hành
vi làm cho bên kia nhầm tưởng là có đầy đủ điều kiện để mua nhà ở hoặc bán nhà ở
là hợp pháp.
Ví dụ về trường hợp bên bán bị coi là có lỗi:
Bên bán bị coi là có lỗi nếu làm cho bên mua tin tưởng là bên bán có quyền sở hữu
nhà ở, quyền sử dụng đất ở hoặc có hành vi gian dối để được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở và sử dụng
các giấy tờ này làm bằng chứng để cho bên mua tin và giao kết hợp đồng mua bán
nhà ở đó.
Ví dụ về trường hợp bên mua bị coi là có lỗi:
Bên mua bị coi là có lỗi nếu có hành vi gian dối làm cho bên bán tin tưởng là
tài sản đặt cọc, tài sản để thực hiện nghĩa vụ thuộc quyền sở hữu của bên mua
nên đã giao kết hoặc giao nhà ở cho bên mua.
a.2. Đối với hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu theo
quy định tại các điều 140, 141, 142 và 143 BLDS, thì áp dụng
quy định của điều luật tương ứng để xác định lỗi của bên bán hoặc lỗi của bên
mua.
a.3. Trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu
do lỗi của hai bên, trừ trường hợp quy định tại Điều 137 BLDS,
thì Toà án phải xác định mức độ lỗi của mỗi bên để xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mỗi bên.
b. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
b.1. Nếu các bên đều có lỗi tương đương nhau làm
cho hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu, thì mỗi bên chịu trách nhiệm 1/2 giá trị
thiệt hại; nếu mức độ lỗi của họ không tương đương nhau, thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được xác định theo mức độ lỗi của mỗi bên.
b.2. Nếu bên mua có lỗi làm cho hợp đồng mua bán
nhà ở vô hiệu, thì bên bán chỉ phải trả cho bên mua số tiền đã nhận và bên mua
phải giao lại nhà cho bên bán (nếu đã nhận); nếu bên mua có lỗi làm cho nhà ở bị
hư hỏng hoặc tháo dỡ thì phải bồi thường khoản tiền do bên bán phải bỏ ra để sửa
chữa, khôi phục lại tình trạng ban đầu do bên mua làm hư hỏng hoặc tháo dỡ nhà.
Trong trường hợp giá nhà giảm mà bên bán bị thiệt hại thì bên mua phải bồi thường
cho bên bán khoản tiền chênh lệch giá được xác định theo cách thức hướng dẫn tại
điểm c tiểu mục 2.4 mục 2 này.
b.3. Nếu bên bán có lỗi làm cho hợp đồng mua bán
nhà ở bị vô hiệu, thì bên bán phải trả cho bên mua số tiền đã nhận và bên mua
phải giao lại nhà cho bên bán (nếu đã nhận). Trong trường hợp có sự chênh lệch
giá nhà mà bên mua bị thiệt hại thì bên bán phải bồi thường khoản tiền chênh lệch
giá được xác định theo cách thức hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.4 mục 2 này.
Khoản tiền chênh lệch được tính theo tỷ lệ số tiền
bên mua nhà đã trả.
b.4. Nếu trong thời gian quản lý, bên mua đã cải
tạo, sửa chữa nhà làm tăng giá trị nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất
thì khi nhận lại nhà bên bán phải thanh toán cho bên mua phần giá trị tăng thêm
đó, trừ trường hợp bên bán có phản đối hoặc cơ quan có thẩm quyền không cho
phép mà bên mua vẫn cố tình cải tạo, sửa chữa.
c. Xác định thiệt hại
c.1. Khi tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu
thì Toà án cần xác định thiệt hại gồm:
Khoản tiền mà bên bán phải bỏ ra để sửa chữa,
khôi phục lại tình trạng ban đầu của nhà ở do bên mua đã tháo dỡ hoặc làm hư hỏng;
khoản tiền mà bên mua đã đầu tư để cải tạo, sửa chữa nhà làm tăng giá trị nhà gắn
liền với giá trị quyền sử dụng đất. Trong trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở
không có đặt cọc và các bên không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp
phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều
379 BLDS để bảo đảm thực hiện hợp đồng, thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền
chênh lệch giữa giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả
thuận với giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử
sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.
c.2. Để xác định đúng các thiệt hại nói trên,
Toà án phải tiến hành định giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất và
xác định thiệt hại về nhà ở như sau:
Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá
nhà, giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan
chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá nhà và
giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa
phương nơi có nhà đất đang tranh chấp đối với từng loại nhà, đất vào thời điểm
xét xử sơ thẩm.
Tuy nhiên, trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh có quy định giá đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất
theo giá thị trường tại địa phương hoặc các Trung tâm giao dịch bất động sản hoạt
động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng đất tại địa phương, thì
Toà án có thể căn cứ vào giá do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá niêm yết của
các Trung tâm giao dịch để xác định giá nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng
đất, mà không nhất thiết phải thành lập Hội đồng định giá.
c.3. Trách nhiệm chịu chi phí cho việc định giá
như sau:
- Các đương sự phải chịu chi phí cho việc định
giá tương ứng với phần nghĩa vụ của họ.
- Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại,
thì người có yêu cầu phải tạm ứng trước chi phí định giá, Toà án sẽ quyết định
ai phải chịu chi phí định giá tuỳ thuộc vào kết quả xét xử.
3. Giải quyết tranh chấp chuyển nhượng hợp đồng
thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
3.1. Chuyển nhượng hợp đồng thuê nhà ở thuộc sở
hữu nhà nước là việc người có hợp đồng thuê nhà ở của Nhà nước do không có nhu
cầu sử dụng hoặc vì lý do nào đó nên đã chuyển nhượng lại hợp đồng thuê diện
tích nhà ở đó cho người khác. Người được thuê lại nhà ở đó phải trả cho người
chuyển nhượng một khoản tiền và được làm thủ tục đăng ký và ký hợp đồng thuê diện
tích nhà ở đó với cơ quan quản lý nhà đất.
3.2. Khi áp dụng Điều 131, khoản
1 Điều 200 và khoản 3 Điều 494 BLDS để giải quyết loại tranh chấp này Toà
án cần lưu ý:
a. Việc chuyển nhượng hợp đồng thuê nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước phải được lập thành văn bản.
b. Nếu việc chuyển nhượng hợp đồng thuê nhà ở được
cơ quan quản lý nhà đất cho phép chuyển nhượng bằng văn bản (tại thời điểm ký kết
hợp đồng, trước phiên toà hoặc tại phiên toà) thì Toà án công nhận hợp đồng và
buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo thoả thuận.
c. Nếu việc chuyển nhượng hợp đồng thuê nhà ở
không được cơ quan quản lý nhà đất cho phép bằng văn bản (tại thời điểm ký kết
hợp đồng, trước phiên toà hoặc tại phiên toà) thì Toà án tuyên hợp đồng vô hiệu
và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo thủ tục chung.
d. Khi giải quyết loại tranh chấp này, thì tuỳ từng
trường hợp cụ thể mà Toà án yêu cầu cơ quan quản lý nhà đất tham gia tố tụng với
tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
II. ĐỐI VỚI CÁC
TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1. Thừa kế trong trường hợp chưa có đăng ký kết
hôn
a. Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước
ngày 03/01/1987, nếu có một bên chết trước, thì bên vợ hoặc chồng còn sống được
hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế.
b. Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như
vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo
quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn
trong thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003; do đó cho đến
trước ngày 01/01/2003 mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên chồng hoặc
vợ còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về
thừa kế. Trong trường hợp sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà có
một bên vợ hoặc chồng chết trước và có tranh chấp về thừa kế thì trong khi chưa
có quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuỳ từng trường hợp mà Toà
án xử lý như sau:
- Nếu chưa thụ lý vụ án thì không thụ lý;
- Nếu đã thụ lý vụ án và đang giải quyết thì ra
quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.
2. Ly hôn có yếu tố nước ngoài
2.1. Đối với trường hợp công dân Việt Nam ở
trong nước xin ly hôn với công dân Việt Nam đã đi ra nước ngoài
Khi giải quyết loại việc này, cần phân biệt như
sau:
a. Đối với những trường hợp uỷ thác tư pháp
không có kết quả vì lý do bị đơn sống lưu vong, không có cơ quan nào quản lý,
không có địa chỉ rõ ràng nên không thể liên hệ với họ được, thì Toà án yêu cầu
thân nhân của bị đơn đó gửi cho họ lời khai của nguyên đơn và báo cho họ gửi về
Toà án những lời khai hoặc tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Sau
khi có kết quả, Toà án có thể căn cứ vào những lời khai và tài liệu đó để xét xử
theo thủ tục chung.
b. Trường hợp bên đương sự là bị đơn đang ở nước
ngoài không có địa chỉ, không có tin tức hoặc giấu địa chỉ nên nguyên đơn ở
trong nước không thể biết địa chỉ, tin tức của họ, thì giải quyết như sau:
- Nếu bị đơn ở nước ngoài không có địa chỉ,
không có tin tức gì về họ (kể cả thân nhân của họ cũng không có địa chỉ, tin tức
gì về họ), thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện
yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú tuyên bố bị đơn mất tích hoặc đã chết
theo quy định của pháp luật về tuyên bố mất tích, tuyên bố chết.
- Nếu thông qua thân nhân của họ mà biết rằng họ
vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước, nhưng thân nhân của họ không cung cấp
địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không thực hiện yêu cầu của
Toà án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Toà án, thì coi đây là
trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những
tài liệu cần thiết. Nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ
cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án cũng như không
chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết, thì Toà án đưa vụ
án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung. Sau khi xét xử Toà án cần gửi
ngay cho thân nhân của bị đơn bản sao bản án hoặc quyết định để những người này
chuyển cho bị đơn, đồng thời tiến hành niêm yết công khai bản sao bản án, quyết
định tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi bị đơn cư trú cuối cùng và nơi thân
nhân của bị đơn cư trú để đương sự có thể sử dụng quyền kháng cáo theo quy định
của pháp luật tố tụng.
2.2. Đối với trường hợp các bên đều là công dân
Việt Nam kết hôn ở nước ngoài theo pháp luật nước ngoài, nay họ về Việt Nam xin
ly hôn.
Khi giải quyết loại việc này cần phân biệt như
sau:
a. Đối với trường hợp các bên có giấy chứng nhận
kết hôn do cơ quan có thẩm quyền của nước đã ký kết với Việt Nam Hiệp định
tương trợ tư pháp hoặc đã được hợp pháp hoá lãnh sự theo quy định của pháp luật
Việt Nam.
Theo quy định của Nghị định số 83/1998/NĐ-CP
ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch (sau đây gọi tắt là Nghị định
số 83) thì việc kết hôn của đương sự cần được ghi chú vào sổ đăng ký; do đó, nếu
việc kết hôn của đương sự chưa được ghi chú vào sổ đăng ký thì Toà án yêu cầu
đương sự làm thủ tục ghi chú vào sổ đăng ký theo quy định của Nghị định số 83 rồi
mới thụ lý giải quyết việc ly hôn. Trong trường hợp đương sự không thực hiện
yêu cầu của Toà án làm thủ tục ghi chú vào sổ đăng ký mà vẫn có yêu cầu Toà án
giải quyết, thì Toà án không công nhận họ là vợ chồng; nếu có yêu cầu Toà án giải
quyết về con cái, tài sản thì Toà án giải quyết theo thủ tục chung.
b. Đối với trường hợp các bên có giấy chứng nhận
kết hôn do cơ quan có thẩm quyền của nước chưa ký kết với Việt Nam Hiệp định
tương trợ tư pháp cấp và cũng chưa được hợp pháp hoá lãnh sự theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
Theo quy định của Nghị định số 83 thì trong trường
hợp này giấy đăng ký kết hôn phải được hợp pháp hoá lãnh sự và việc kết hôn cần
được ghi chú vào sổ đăng ký; do đó, nếu giấy đăng ký kết hôn của họ chưa được hợp
pháp hoá lãnh sự, việc kết hôn của họ chưa được ghi chú vào sổ đăng ký, thì Toà
án yêu cầu đương sự hoàn tất thủ tục hợp pháp hoá lãnh sự và làm thủ tục ghi
chú vào sổ đăng ký rồi mới thụ lý giải quyết. Trong trường hợp đương sự không
thực hiện các thủ tục đó mà vẫn có yêu cầu Toà án giải quyết, thì Toà án không
công nhận họ là vợ chồng; nếu có yêu cầu Toà án giải quyết về con cái, tài sản
thì Toà án giải quyết theo thủ tục chung.
2.3. Đối với trường hợp người Việt Nam ở nước
ngoài kết hôn với người nước ngoài mà việc kết hôn đó được công nhận tại Việt
Nam, nay người Việt Nam về nước và người nước ngoài xin ly hôn
a. Trong trường hợp người nước ngoài đang ở nước
ngoài xin ly hôn người Việt Nam mà người Việt Nam còn quốc tịch Việt Nam và
đang cư trú tại Việt Nam, thì Toà án thụ lý giải quyết nhưng việc áp dụng pháp
luật để giải quyết cần phân biệt như sau:
- Nếu người nước ngoài là công dân của nước mà
Việt Nam đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp với nước đó mà trong Hiệp định tương
trợ tư pháp đó có quy định khác với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì áp dụng
quy định của Hiệp định tương trợ tư pháp để giải quyết; nếu không có quy định
khác thì áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
- Nếu người nước ngoài là công dân của nước mà
Việt Nam chưa ký Hiệp định tương trợ tư pháp với nước đó thì áp dụng quy định của
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
- Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước
ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.
b. Trong trường hợp người Việt Nam không còn quốc
tịch Việt Nam mặc dù vẫn đang cư trú tại Việt Nam thì Toà án không thụ lý giải
quyết vì việc này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
2.4. Đối với trường hợp công dân Việt Nam ở
trong nước xin ly hôn với người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài
Công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài,
nhưng người nước ngoài đã về nước mà không còn liên hệ với công dân Việt Nam,
nay công dân Việt Nam xin ly hôn, thì Toà án thụ lý giải quyết.
Theo quy định tại Điều 18 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vợ chồng có nghĩa vụ chăm sóc giúp đỡ
nhau, cùng xây dựng gia đình hạnh phúc; do đó, nếu người nước ngoài bỏ về nước
không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng theo quy định, thời gian không có tin tức cho
vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam từ một năm trở lên mà đương sự, thân nhân của
họ và các cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước họ, các
cơ quan có thẩm quyền mà người đó là công dân), sau khi đã điều tra xác minh địa
chỉ của họ theo thủ tục xuất nhập cảnh, địa chỉ mà họ khai khi đăng ký kết hôn
theo giấy đăng ký kết hôn... nhưng cũng không biết tin tức, địa chỉ của họ, thì
được coi là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ và xử cho ly hôn.
III. HIỆU LỰC THI HÀNH CỦA NGHỊ QUYẾT
1. Nghị quyết này được Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao thông qua ngày 16 tháng 4 năm 2003 và có hiệu lực thi hành sau
mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Những hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao được
ban hành trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực về các vấn đề được hướng dẫn
trong Nghị quyết này đều bãi bỏ.
2. Đối với những vụ án dân sự, hôn nhân và gia
đình mà Toà án đã thụ lý nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử
giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng Nghị quyết này để giải quyết.
3. Đối với các bản án, quyết định dân sự, hôn
nhân và gia đình của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết này
có hiệu lực thi hành thì không áp dụng Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thấm, trừ trường hợp việc kháng nghị bản án, quyết định
có những căn cứ khác.
CÔNG TY LUẬT TNHH QUỐC TẾ HỒNG THÁI VÀ ĐỒNG NGHIỆP TRÂN TRỌNG!
Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006248 hoặc E-mail: luathongthai@gmail.com
Trụ sở chính: LK9-38 Tổng cục 5, Tân Triều, Hà Nội (cuối đường Chiến Thắng, Thanh Xuân)
Các bài viết liên quan:
Những vụ việc nhân viên hàng không bị hành khách đánh chửi, hành hung ngay tại sân bay gây phẫn nộ Những ngày gần đây, vụ việc nữ nhân viên hãng hàng không Vietjet bị 3 nam thanh niên hành hung ở sân... |
Quyền im lặng trong Tố tụng Hình sự theo quy định của pháp luật. Quyền con người và bảo đảm quyền con người luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của... |