Những người có hành vi đe dọa, nhục mạ , xúc phạm danh dự,
nhân phẩm, hoặc có thể đe dọa đến tính mạng thì có thể căn cứ
vào thông tin lưu trữ (nếu có) và xác định được thông tin cụ thể của
các đối tượng đó thì bạn có quyền trình báo cơ quan có thẩm quyền giải quyết: (
ngoài ra có thể lưu trữ tin nhắn, ghi âm cuộc hội thoại bằng điện thoại
hoặc camera gia đình để lữu giữ lại làm căn cứ trình báo bên cơ quan công an)
- Hồ sơ bao gồm:
+ Đơn trình báo công an
+ Các chứng cứ kèm theo xác minh chính xác là có hành vi đó xảy ra
Nếu có đủ các dấu hiệu cấu thành các hành vi sau thì người
có hành vi vi phạm có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự tùy theo các căn cứ mà bạn có và cơ quan công an thu giữ, truy
tìm được. Theo đó, người vi phạm có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặt
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Gây rối trật tự, Đe dọa giết người
- Việc gây rối trật tự công cộng có thể bị xử lý như sau: Điều 5 nghị định 167/2013/NĐ-CP
như sau:
"1.
Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong
những hành vi sau đây:
a) Có cử chỉ, lời nói
thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;..."
- Tội Gây rồi trật tự quy định tại Điều 318 BLHS quy
định 2 trường hợp phạm tội như sau:
– Trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi gây rối trật tự
công cộng và đã gây ra hậu quả là gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an
toàn xã hội. Hành vi khách quan của tội phạm này được thể hiện ở hành vi gây
rối trật tự công cộng có nghĩa là hành vi phá vỡ tình trạng ổn định, có tổ
chức, có kỷ luật ở nơi công cộng. Hành vi này được thực hiện công khai ở nơi
công cộng, thể hiện dưới nhiều dạng hành vi cụ thể khác nhau có thể bằng lời
nói thô tục, chửi bới, la hét hoặc bằng hành động đập phá đồ đạc, tài sản, đánh
nhau, xô đẩy người khác hoặc tạo ra âm thanh gây tiếng ồn lớn…
Hậu quả của tội phạm được quy định là gây ảnh hưởng xấu đến
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, có nghĩa là hành vi gây rối đã dẫn đến tình
trạng mất ổn định, hỗn loạn, vô tổ chức, vô kỷ luật ở nơi công cộng mà hành vi
đó thực hiện.

Bị đòi nợ kiểu xã hội đen thì xử lý như thế nào? (ảnh minh họa)
– Trường hợp tuy hành vi gây rối trật tự công cộng chưa gây
hậu quả là gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, nhưng trước
đó chủ thể là người đã bị xữ phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án
về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức
được hành vi gây rối trật tự công cộng là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực
hiện. Động cơ, mục đích của người phạm tội rất đa dạng nhưng không phải là dấu
hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này và do vậy, chúng không ý nghĩa trong
việc xác định tội phạm.
Hình phạt:
– Khung cơ bản, có mức phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu
đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02
năm. So với hình phạt tiền được quy định tại khoản 1 Điều 245 BLHS năm 1999 (từ
01 triệu đồng đến 10 triệu đồng) thì mức phạt tiền quy định tại khoản 1 Điều
318 BLHS năm 2015 tăng gấp 5 lần. Việc sửa đổi hình phạt tiền theo hướng tăng
mức tiền phạt là hoàn toàn cần thiết, bởi vì mức phạt củ quá thấp không
đủ răn đe người phạm tội cũng như những người kahcs có ý định phạm tội này
trong tình hình hiện nay.
– Khung tăng nặng, có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm áp
dụng cho trường hợp phạm tội sau:
+ Có
tổ chức;
+ Dùng vũ khí, hung khí
hoặc có hành vi phá phách;
+ Gây cản trở giao thông
nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;
+ Xúi giục người khác gây
rối;
+ Hành hung người can
thiệp bảo vệ trật tự công cộng;
+ Tái phạm nguy hiểm.
- Tội
đe dọa giết người được quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự, được thiết kế
thành 2 khoản, trong đó khoản 1 quy định cấu thành cơ bản còn khoản 2 quy định
cấu thành tăng nặng với 5 trường hợp khác nhau.
“1. Người nào đe doạ giết người, nếu có căn cứ làm cho người
bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ
của nạn nhân;
d) Đối với người dưới 16 tuổi;
đ) Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm
khác.”
Cấu thành tội phạm tội này quy định như sau:
Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội phạm này có các dấu hiệu sau:
+
Có hành vi làm cho người bị đe doạ biết được khả năng tính mạng của họ sẽ bị
xâm phạm (bị giết chết).
+
Có căn cứ làm cho người bị đe doạ lo sợ rằng việc đe doạ này sẽ được thực hiện.
Vấn
đề xác định có hay không có căn cứ cho rằng người đe doạ có khả năng sẽ hành
động thực sự trên thực tế là rất khó xác định và cần phải xét một cách toàn
diện trên các mặt sau:
–
Phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi đe doạ.
–
Nguyên nhân của việc xảy ra hành vi đe doạ, mâu thuẫn giữa người có hành vi đe
doạ với người bị đe doạ.
–
Trạng thái tâm lý, xử sự của người bị đe doạ sau khi bị đe doạ.
–
Số lần đe doạ và khả năng thực hiện các hành vi đó của người đe doạ.
Khách thể: Hành
vi phạm tội nêu trên xâm phạm đến quyền được bảo vệ về tính mạng của công dân.
Mặt chủ quan: Người
phạm tội đã thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián
tiếp).
Chủ thể:Chủ
thể của tội đe doạ giết người là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình
sự.
Về hình phạt: Mức hình phạt đối với tội phạm này được chia thành hai
khung, cụ thể như sau:
- Khung một (khoản 1)
Có
mức hình phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Được
áp dụng trong trường hợp có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nêu ở mặt
khách quan.
- Khung hai (khoản 2)
Có
mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Được áp dụng trong trường hợp phạm tội đe
doạ giết người thuộc một trong các trường hợp sau:
–
Đối với nhiều người (từ hai người trở lên)
–
Đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân (xem
giải thích tương tự ở tội giết người).
–
Đối với trẻ em (tức là người dưới mười sáu tuổi)
–
Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác (Tội phạm
khác là tội phạm mà người phạm tội đã thực hiện hoặc đang thực hiện).