Nghị định 24/2019/NĐ-CP
CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 24/2019/NĐ-CP
|
Hà Nội, ngày 05 tháng 3 năm 2019
|
NGHỊ ĐỊNH
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 19/2011/NĐ-CP NGÀY 21 THÁNG 3
NĂM 2011 CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT NUÔI CON
NUÔI
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 19
tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật nuôi con nuôi ngày 17 tháng 6 năm 2010;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm 2011 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi.
Điều 1. Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm 2011 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi
1. Sửa đổi khoản 1 Điều 2
như sau:
“1. Đối với việc nuôi con nuôi trong nước,
trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi;
cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi cư trú của người nhận con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi thực
hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa chuyển vào cơ
sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập biên
bản xác nhận tình trạng trẻ
em bị bỏ rơi thực hiện đăng
ký việc nuôi con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con
nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng thực hiện
đăng ký việc nuôi con nuôi.”
2. Sửa đổi, bổ sung khoản 1
Điều 3 như sau:
“1. Trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm
nghèo được nhận đích danh làm con nuôi theo quy định tại điểm d
khoản 2 Điều 28 của Luật nuôi con nuôi, gồm trẻ em bị sứt môi hở hàm ếch;
trẻ em bị mù một hoặc cả hai mắt; trẻ em bị câm, điếc; trẻ em
bị khoèo chân, tay; trẻ em không có ngón hoặc bàn chân, tay; trẻ em nhiễm HIV;
trẻ em mắc các bệnh về tim; trẻ em không có hậu môn hoặc bộ phận sinh dục; trẻ
em mắc các bệnh về máu; trẻ em bị khuyết tật khác hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác
cần điều trị khẩn cấp hoặc cả đời.”
3. Sửa đổi, bổ sung Điều 4
như sau:
“Điều 4. Hỗ trợ, tiếp nhận, quản lý, sử
dụng hỗ trợ nhân đạo ở cơ sở nuôi dưỡng
Việc hỗ trợ, tiếp nhận, quản lý, sử dụng
hỗ trợ nhân đạo nhằm mục đích nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em và tăng
cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em ở cơ
sở nuôi dưỡng được thực hiện theo quy định tại Điều 7 của Luật
nuôi con nuôi, pháp luật về tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản viện
trợ, tài trợ cho các cơ sở nuôi dưỡng công lập và ngoài công lập và quy định cụ
thể sau đây:
1. Cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước hỗ
trợ nhân đạo thông qua chương trình, dự án, viện trợ phi dự án hoặc tài trợ cho
Quỹ bảo trợ trẻ em.
2. Khi hỗ trợ nhân đạo, cá nhân, tổ chức
không được yêu cầu cơ sở nuôi dưỡng cho trẻ em làm con nuôi; cơ sở nuôi dưỡng không được cam kết cho trẻ em
làm con nuôi vì lý do đã nhận hỗ trợ nhân đạo.
Trường hợp cá nhân, tổ chức hỗ trợ nhân
đạo bằng tiền thì phải thực hiện thông qua tài khoản của cơ sở nuôi dưỡng.
3. Khi hỗ trợ, tiếp nhận hỗ trợ nhân đạo,
ngoài việc thực hiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, cha mẹ nuôi
nước ngoài, tổ chức con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam và
cơ sở nuôi dưỡng có trách nhiệm như sau:
a) Cha mẹ nuôi nước ngoài thông tin cho tổ
chức con nuôi nước ngoài về các khoản hỗ trợ nhân đạo đã thực hiện ở Việt Nam;
b) Định kỳ 06 tháng và hằng năm hoặc theo
yêu cầu, tổ chức con nuôi nước ngoài báo cáo Cục Con nuôi thuộc Bộ Tư pháp (sau
đây gọi là Cục Con nuôi) các khoản hỗ trợ nhân đạo của cha mẹ nuôi và của tổ
chức;
c) Định kỳ 06 tháng và hằng năm hoặc theo
yêu cầu, cơ sở nuôi dưỡng báo cáo việc tiếp nhận, sử dụng và quản lý các khoản
hỗ trợ nhân đạo theo quy định của pháp luật và báo cáo Cục Con nuôi về việc
tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của cha mẹ nuôi và tổ
chức con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam.”
4. Sửa đổi, bổ sung Điều 6
như sau:
“Điều 6. Rà soát, tìm người nhận trẻ em
làm con nuôi
1. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em không nơi
nương tựa đang được cá nhân, gia đình, tổ chức tạm thời nuôi dưỡng hoặc chăm
sóc thay thế theo quy định của pháp luật, Ủy ban nhân dân cấp xã hàng tháng rà
soát, đánh giá việc trẻ em cần được nhận làm con nuôi. Nếu có công dân Việt Nam thường trú ở trong nước
nhận trẻ em làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, giải quyết hoặc
hướng dẫn giải quyết việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp tiếp nhận trẻ em bị bỏ rơi,
trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em không nơi nương tựa vào sống ở cơ sở nuôi
dưỡng, cơ sở nuôi dưỡng đánh giá việc trẻ em cần được nhận làm con nuôi. Nếu có
công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì cơ sở
nuôi dưỡng giao 01 bộ hồ sơ trẻ em cho người nhận con nuôi để thực hiện đăng ký
việc nuôi con nuôi.
Nếu không có công dân Việt Nam thường trú
ở trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ trẻ em bao
gồm các giấy tờ, tài liệu theo quy định tại điểm a và điểm b
khoản 1 Điều 32 của Luật nuôi con nuôi, xin ý kiến của cơ quan chủ quản.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ, cơ quan chủ
quản có ý kiến gửi Sở Tư pháp kèm theo hồ sơ trẻ em để thông báo tìm người nhận
con nuôi.
3. Việc tìm người nhận trẻ em làm con nuôi
được thực hiện như sau:
a) Khi tiếp nhận hồ sơ trẻ em theo quy định tại khoản 2 Điều này,
nếu có công dân Việt Nam thường trú ở trong nước đăng ký nhu cầu nhận con nuôi
theo quy định tại Điều 16 của Luật nuôi con nuôi thì Sở Tư
pháp giao 01 bộ hồ sơ trẻ em cho người nhận con nuôi và giới thiệu người nhận
con nuôi đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng để xem
xét, giải quyết theo quy định của pháp luật;
b) Trường hợp không có công dân Việt Nam
thường trú ở trong nước đăng ký nhu cầu nhận con nuôi, đối với trẻ em không
thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều 3 của Nghị định này thì Sở Tư pháp thông
báo tìm người nhận trẻ em làm con nuôi. Sau khi hết thời hạn thông báo theo quy
định tại điểm c khoản 2 Điều 15 của Luật nuôi con nuôi, nếu
không có công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì
Sở Tư pháp gửi 01 bộ hồ sơ trẻ em bao gồm các giấy tờ, tài liệu theo quy định
tại khoản 1 Điều 32 của Luật nuôi con nuôi cho Cục Con nuôi
để thông báo tìm người nhận con nuôi theo quy định tại điểm d
khoản 2 Điều 15 của Luật nuôi con nuôi.
Đối với trẻ em thuộc diện quy định tại
khoản 1 Điều 3 của Nghị định này thì Sở Tư pháp xác nhận trẻ em đủ điều kiện
được cho làm con nuôi và gửi Cục Con nuôi 01 bộ hồ sơ trẻ em bao gồm các giấy
tờ, tài liệu theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 32
của Luật nuôi con nuôi và khoản 3 Điều 16 của Nghị định này để tìm người
nhận con nuôi đích danh có điều kiện phù hợp với việc chăm sóc và nuôi dưỡng
trẻ em.”
5. Sửa đổi, bổ sung khoản
2, khoản 3 Điều 10 như sau:
“2. Căn cứ vào Giấy chứng nhận nuôi con
nuôi, theo yêu cầu của cha mẹ nuôi và sự đồng ý của con nuôi từ đủ chín tuổi
trở lên, cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền thực hiện việc thay đổi họ, chữ
đệm và tên của con nuôi theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật về hộ
tịch.
3. Việc bổ sung, thay đổi thông tin về
cha, mẹ trong Giấy khai sinh của con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp
luật về hộ tịch.”
6. Sửa đổi khoản 2 và
bổ sung khoản 3 Điều 14 như sau:
“2. Đối với trẻ em thuộc diện thông qua thủ tục giới thiệu, thì
phải có các văn bản sau đây:
a) Văn bản của Sở Tư pháp kèm theo giấy
tờ, tài liệu về việc đã thông báo tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em
theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 15 của Luật nuôi con nuôi;
b) Văn bản xác nhận của Cục Con nuôi về
việc đã hết thời hạn thông báo theo quy định tại điểm d khoản 2
Điều 15 của Luật nuôi con nuôi nhưng không có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi.
3. Tại lễ giao nhận con nuôi, Sở Tư pháp
giao cho cha, mẹ nuôi 01 bộ hồ sơ trẻ em gồm các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 32 của Luật nuôi con nuôi và văn bản lấy ý kiến
của cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ và ý kiến của trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên về việc đồng ý cho trẻ em làm
con nuôi; trường hợp trẻ em đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng thì phải có văn bản
lấy ý kiến của Giám đốc cơ sở nuôi dưỡng về việc cho trẻ em làm con nuôi.”
7. Sửa đổi, bổ sung Điều
16 như sau:
“1. Trước khi xác nhận trẻ em có đủ điều
kiện làm con nuôi ở nước ngoài theo quy định tại khoản 2 Điều
33 của Luật nuôi con nuôi, Sở Tư pháp kiểm tra, thẩm định hồ sơ trẻ em và
đối chiếu với các quy định về đối tượng, độ tuổi của trẻ em được nhận làm con
nuôi, trường hợp được nhận đích danh, trường hợp phải thông qua thủ tục giới
thiệu.
Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi được cho làm con nuôi ở nước ngoài,
thì phải có văn bản xác minh và kết luận rõ ràng của Công an cấp tỉnh về nguồn
gốc trẻ em bị bỏ rơi, không xác định được cha mẹ đẻ.
Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi mà Công an cấp tỉnh xác minh được
thông tin về cha, mẹ đẻ và Sở Tư pháp liên hệ được với cha, mẹ đẻ thì Sở Tư
pháp tiến hành lấy ý kiến của cha, mẹ đẻ trước khi xác nhận trẻ em đủ điều kiện
làm con nuôi.
Trường hợp không thể liên hệ được với cha,
mẹ đẻ, Sở Tư pháp niêm yết tại trụ sở Sở Tư pháp trong thời hạn 60 ngày kể từ
ngày nhận được kết quả xác minh, đồng thời có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi cư trú cuối cùng của cha, mẹ đẻ niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân
cấp xã về việc cho trẻ em làm con nuôi. Thời hạn niêm yết là 60 ngày kể từ ngày
Ủy ban nhân dân cấp xã nhận được văn bản đề nghị của Sở Tư pháp.
2. Việc xác nhận trẻ em có đủ điều kiện
làm con nuôi phải bảo đảm trẻ em đáp ứng đủ các yêu cầu về độ tuổi, đối tượng
được nhận đích danh, đối tượng phải thông qua thủ tục giới thiệu; hồ sơ phải có
đủ các giấy tờ hợp lệ.
Trường hợp trẻ em có đủ điều kiện làm con
nuôi, Sở Tư pháp phải có văn bản xác nhận đối với từng trường hợp cụ thể.
3. Sau khi xác nhận trẻ em đủ điều kiện
được cho làm con nuôi ở nước ngoài, Sở Tư pháp gửi Cục Con nuôi văn bản xác
nhận trẻ em đủ điều kiện được cho làm con nuôi, văn bản xác minh của Công an
cấp tỉnh đối với trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, văn bản lấy ý kiến của cha, mẹ đẻ
hoặc người giám hộ và ý kiến của trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên về việc đồng ý cho trẻ em làm con nuôi; trường hợp
trẻ em đang sống tại cơ sở
nuôi dưỡng thì phải có văn bản lấy ý kiến của Giám đốc cơ sở nuôi dưỡng về việc
cho trẻ em làm con nuôi.”
8. Sửa đổi, bổ sung khoản
3 Điều 20 như sau:
“3. Trong khi kiểm tra kết quả giải quyết
việc nuôi con nuôi theo quy định tại khoản 2 Điều 28 và khoản 2
Điều 36 của Luật nuôi con nuôi, Cục Con nuôi có thể lấy ý kiến của chuyên
gia tâm lý, y tế, gia đình, xã hội. Nếu trẻ em có đủ điều kiện để cho làm con
nuôi ở nước ngoài, việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi bảo đảm đúng trình
tự, thủ tục quy định và đáp ứng lợi ích tốt nhất của trẻ em, thì Cục Con nuôi thông báo bằng văn bản cho người nhận con
nuôi, Cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của nước ngoài hữu quan kèm theo báo
cáo đánh giá về trẻ em đủ điều kiện cho làm con nuôi ở nước ngoài và văn bản
lấy ý kiến của cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ và ý kiến của trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên về việc đồng ý cho trẻ em làm con
nuôi; trường hợp trẻ em đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng thì phải có văn bản lấy
ý kiến của Giám đốc cơ sở nuôi dưỡng về việc cho trẻ em làm con nuôi. Trường
hợp trẻ em không đủ điều kiện để cho làm con nuôi, việc giải quyết cho trẻ em
làm con nuôi không bảo đảm đúng trình tự, thủ tục quy định và không đáp ứng lợi
ích tốt nhất của trẻ em, thì Cục Con nuôi thông báo cho Sở Tư pháp.”
9. Sửa đổi Điều 30 như
sau:
“Điều 30. Ghi vào Sổ đăng ký nuôi con
nuôi việc nuôi con nuôi đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước
ngoài
1. Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt
Nam với nhau hoặc giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đã được giải
quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì được ghi vào Sổ đăng ký nuôi
con nuôi trong các trường hợp sau:
a) Việc nuôi con nuôi đã được giải quyết
theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước nơi giải quyết việc nuôi
con nuôi cùng là thành viên;
b) Việc nuôi con nuôi đã được giải quyết
theo quy định pháp luật của nước ngoài, trừ trường hợp vi phạm những nguyên tắc
cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Thẩm quyền, thủ tục ghi vào Sổ đăng ký
nuôi con nuôi việc nuôi con nuôi đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền
của nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Đối với trường hợp nuôi con nuôi được giải
quyết theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, thì ngoài các giấy tờ quy định
tại khoản 1 Điều 49 của Luật hộ tịch, hồ sơ còn phải có văn
bản chứng nhận việc nuôi con nuôi đã được thực hiện phù hợp với điều ước quốc
tế của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
3. Cục Con nuôi đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp danh
sách các nước có quan hệ hợp tác với Việt Nam theo điều ước quốc tế về nuôi con nuôi.”
Điều 2. Thay thế,
bãi bỏ một số quy định của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm 2011
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi
1. Thay thế cụm từ “công nhận việc nuôi
con nuôi đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài” thành “ghi
vào Sổ đăng ký nuôi con nuôi việc nuôi con nuôi đã được giải quyết tại cơ quan
có thẩm quyền của nước ngoài” tại khoản 2 Điều 1 và Mục 6
Chương II.
2. Bỏ cụm từ “của người đứng đầu tổ chức
con nuôi nước ngoài theo quy định tại điểm e và” tại khoản 3 Điều 5.
3. Bãi bỏ khoản 3 Điều 3,
Điều 11, điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 31.
Điều 3. Trách nhiệm
tổ chức thực hiện
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương và các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Điều 4. Điều khoản
thi hành
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày
25 tháng 4 năm 2019./.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Tổng Bí thư;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán nhà nước;
- Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia;
- Ngân hàng Chính sách xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTg, TGĐ Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị
trực thuộc, Công báo;
- Lưu: VT, PL (2). XH
|
TM.
CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Xuân Phúc
|