HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*********
|
Số:
03/2006/NQ-HĐTP
|
Hà Nội, ngày 08 tháng 7 năm 2006
|
NGHỊ
QUYẾT
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
HỘI ĐỒNG
THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân;
Căn cứ vào Nghị quyết số 45/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của Quốc hội
"Về việc thi hành Bộ luật dân sự";
Để áp dụng đúng và thống nhất quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 trong việc
giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
QUYẾT NGHỊ:
I. VỀ NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Theo
quy định tại Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 (sau đây gọi
tắt là BLDS), về nguyên tắc chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây:
1.1.
Phải có thiệt hại xảy ra.
Thiệt
hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.
a)
Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 608 BLDS; thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 609 BLDS; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định
tại khoản 1 Điều 610 BLDS; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS.
b)
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị
xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương,
buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mấy uy tín, bị bạn bè xa lánh
do bị hiểu nhầm.. và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà
họ phải chịu.
Thiệt
hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là
pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm,
tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị hiểu nhầm và cần
phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.
1.2.
Phải có hành vi trái pháp luật.
Hành
vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua
hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.
1.3.
Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược
lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
1.4. Phải
có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.
a) Cố
ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn,
nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
b) Vô
ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có
khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ
xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho
rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Cần
chú ý là đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại cả
khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong
trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
2.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
2.1.
Khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải thực
hiện đúng nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 605
BLDS. Cần phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về mức bồi thường, hình
thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thỏa thuận đó không trái pháp
luật, đạo đức xã hội.
2.2.
Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì khi giải quyết tranh chấp về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần chú ý:
a)
Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ, có nghĩa là khi có yêu cầu giải quyết
bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy
tín bị xâm phạm phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS quy định trong
trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra
là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi
thường các khoản thiệt hại tương xứng đó.
b) Để
thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, Tòa án phải giải quyết nhanh chóng
yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần
thiết có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định
của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự.
c)
Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều kiện
sau đây:
- Do
lỗi vô ý mà gây thiệt hại;
-
Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người
gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so
với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả
năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.
d) Mức
bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự thay
đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang
được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về
tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi
thường thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về
khả năng kinh tế của người gây thiệt hại…
3.
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
3.1.
Khi thực hiện quy định tại Điều 606 BLDS về năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cần phải chú ý xác định đúng tư cách đương sự
trong từng trường hợp; cụ thể như sau:
-
Trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 606 BLDS thì
người gây thiệt hại là bị đơn dân sự, trừ khi họ mất năng lực hành vi dân sự;
-
Trong trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 606 BLDS thì
cha, mẹ của người gây thiệt hại là bị đơn dân sự;
-
Trong trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS thì
người gây thiệt hại là bị đơn dân sự và cha, mẹ của người gây thiệt hại là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
-
Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì cá
nhân, tổ chức giám hộ là bị đơn dân sự.
3.2.
Việc quyết định về bồi thường (lấy tài sản để bồi thường) phải cụ thể và theo
đúng quy định tại Điều 606 BLDS.
4.
Chi phí hợp lý
Các khoản chi phí hợp lý quy định tại các điểm a
và c khoản 1 Điều 609, các điểm b và c khoản 1 Điều 610 và điểm a khoản 1 Điều
611 BLDS là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của
thiệt hại, phù hợp với gá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm chi phí.
5. Nghĩa vụ chứng minh của các đương sự
a) Người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu rõ
từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng
từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí hợp lý, về thu nhập của
người bị thiệt hại.
b) Người gây thiệt hại yêu cầu giảm mức bồi thường thiệt hại phải
có tài liệu, chứng cứ về khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình không
đủ để bồi thường toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đã xảy ra.
c) Người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại yêu cầu thay đổi
mức bồi thường thiệt hại phải có đơn xin thay đổi mức bồi thường thiệt hại. Kèm
theo đơn là các tài liệu, chứng cứ làm căn cứ cho việc xin thay đổi mức bồi
thường thiệt hại.
d) Việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ của người có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại.
6. Về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
Việc xác định thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
được thực hiện như sau:
a) Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát
sinh kể từ ngày 01-01-2005 (ngày Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực), thì thời
hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm.
b) Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
phát sinh trước ngày 01-01-2005, thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường
thiệt hại là hai năm, kể từ ngày 01-01-2005.
II. XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI
1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:
1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi
sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: Tiền
thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc
và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X-quang, chụp cắt lớp, siêu
âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ;
tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe
cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết
khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay
giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ… để hỗ trợ
hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người
bị thiệt hại (nếu có).
1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt
hại. Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế,
nhưng do sức khỏe bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực
tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực
tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.
a) Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:
- Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu
nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì
căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người bị xâm phạm
sức khỏe nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của
người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm
việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác
nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng
thì của tất cả các tháng) trước khi sức khỏe bị xâm phạm nhân với thời gian
điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu
nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức
thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác
định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm
việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 609 BLDS.
b) Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị
thiệt hại được thực hiện như sau:
Bước một: Xác
định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay
không. Nếu có thì tổng hợp số thu nhập là bao nhiêu.
Bước hai: Lấy
tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị
so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn tại điểm a
tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt
hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị
mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị
thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại
không bị mất.
Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước
khi sức khỏe bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do
sức khỏe bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong
trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất.
Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập
thực tế của B trước khi sức khỏe bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng
là 600 ngàn đồng. Do sức khỏe bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian
điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 300 ngàn đồng. Trong trường hợp
này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 300 ngàn đồng.
Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 500 ngàn
đồng. Do sức khỏe bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan
vẫn trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của
C không bị mất.
1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm
sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời
gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung
bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người
chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo
yêu cầu của cơ sở y tế.
b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại
trong thời gian điều trị được xác định như sau:
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn
định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ
vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc
người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực
tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng
có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung
bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước
khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để
xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có
tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được
hưởng tiền công chăm sóc bằng tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người
tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.
- Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc
vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo
quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập
thực tế và do đó không được bồi thường.
1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả
năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không
còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm
thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị
suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi
phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm:
chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và
chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.
b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại
được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật
tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi
thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao
động.
1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm
phạm.
a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm
được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.
b) Trong mọi trường hợp, khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt
hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào
hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức
độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất
về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã
hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân…
c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho
người bị thiệt hại trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được,
thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt
hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30
tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.
2. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị
thiệt hại trước khi chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục
1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều
trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.
2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua
quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến,
hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng
nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng
tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...
2.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có
nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.
a) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị
thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị
thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được
người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng, tương ứng
đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi
dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người
này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả
năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi
thường.
Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm
phạm.
b) Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng.
- Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự
nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ
nuôi dưỡng;
- Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả
năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt
hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;
- Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để
tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ
trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao
động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi
dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã
thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong
trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài
sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là
người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi
mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại
đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng
lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà
ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có
tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên
không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm
phạm.
a) Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong
trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người
bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người bị thiệt hại.
b) Trường hợp không có những người được hướng dẫn tại điểm a tiểu
mục 2.4 mục 2 này, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần
là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp
nuôi dưỡng người bị thiệt hại.
c) Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người
thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực
tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (sau đây
gọi chung là người thân thích) của người bị thiệt hại được bồi thường khoản
tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục
1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của
những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về
tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối
quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của
người bị thiệt hại...
d) Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần
trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì mức bồi thường
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của
người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người
thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước
quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.
3. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm gồm có thiệt
hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm; thiệt hại do danh
dự, uy tín của tổ chức bị xâm phạm.
3.1. Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại bao gồm: chi
phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm,
uy tín của người bị thiệt hại; chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ
chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; tiền tàu, xe đi lại, thuê
nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí để
yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự việc, cải chính trên các phương tiện
thông tin đại chúng; chi phí tổ chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư
trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại và các chi phí thực tế, cần thiết
khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại (nếu có).
3.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
a) Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị
xâm phạm có thu nhập thực tế, nhưng do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
người bị xâm phạm phải thực hiện những công việc để hạn chế, khắc phục thiệt
hại, nên khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi
thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.
b) Việc xác định thu nhập thực tế của người bị xâm phạm và việc
xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị xâm phạm được
thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.
3.3. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm.
a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị xâm phạm.
b) Trong mọi trường hợp khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm, người bị xâm phạm được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh
thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết
này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị xâm hại. Việc xác
định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào hình thức xâm phạm (bằng lời
nói hay đăng trên báo viết hay báo hình…), hành vi xâm phạm, mức độ lan truyền
thông tin xúc phạm…
c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho
người bị xâm phạm trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được,
thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào mức
độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 10 tháng lương tối thiểu do
Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường".
4. Thời gian hưởng bồi thường thiệt hại
do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm (Điều 612 BLDS)
a) Trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao
động, thì người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền bồi thường được hướng dẫn
tại điểm a tiểu mục 1.4 mục 1 Phần II này cho đến khi chết.
b) Đối với việc cấp dưỡng được hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2
Phần II này chấm dứt khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình.
III. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO
ĐỘ GÂY RA (ĐIỀU 623 BLDS)
1. Xác định nguồn nguy hiểm cao độ
a) Khi có phương tiện giao thông, công trình, vật chất hoặc loại
thú nào đó gây ra thiệt hại, để có căn cứ áp dụng các khoản 2,
3 và 4 Điều 623 BLDS xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì phải xác
định nguồn gây ra thiệt hại có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không.
b) Để xác định nguồn nguy hiểm cao độ cần phải căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS và văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan hoặc quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể
đó. Ví dụ: Để xác định phương tiện giao thông cơ giới đường bộ thì phải căn cứ
vào Luật Giao thông đường bộ. Theo quy định tại điểm 13 Điều 3
Luật giao thông đường bộ thì phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe
ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe
tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật.
2. Xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
a) Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm là đang thực hiện mọi hành
vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ nhưng không
được trái pháp luật, đạo đức xã hội; khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi
tức từ nguồn nguy hiểm cao độ.
b) Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và
người được giao chiếm hữu, sử dụng có thỏa thuận khác không trái pháp luật, đạo
đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường.
Ví dụ: Các thỏa thuận sau đây là không trái pháp luật, đạo đức xã
hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường:
- Thỏa thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại;
- Thỏa thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người
được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi
thường;
- Ai có điều kiện về kinh tế hơn thì người đó thực hiện việc bồi
thường thiệt hại trước.
Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người
khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không theo đúng quy định của
pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sỡ hữu phải bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe ô tô, nhưng
vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải
bồi thường thiệt hại.
c) Về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao
chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
- Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt
hại.
Ví dụ: Xe ô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của
pháp luật, thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị
thương nặng hoặc bị chết. Trong trường hợp này chủ sở hữu, người được chủ sở
hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó không phải bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô) gây ra.
- Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế
cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cần chú ý là trong trường
hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết
thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của văn bản
quy phạm pháp luật đó.
d) Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ
phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người
được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để
nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các
quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
theo đúng các quy định của pháp luật).
Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp
pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái
pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản,
trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp
luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
đ) Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm
cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường hợp cụ
thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại.
Ví dụ:
A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao
thông đã gây tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt:
- Nếu
B chỉ được A thuê lái xe ô tô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là
người chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, A phải
bồi thường thiệt hại.
- Nếu
B được A giao xe ô tô thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa A không còn
chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà B là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó,
B phải bồi thường thiệt hại. Nếu trong trường hợp này được sự đồng ý của A, B
giao xe ô tô cho C thông qua hợp đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người
chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó; do đó, C phải bồi thường thiệt hại.
IV. HIỆU LỰC THI HÀNH CỦA NGHỊ QUYẾT
1. Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao thông qua ngày 08 tháng 7 năm 2006 và có hiệu lực thi hành sau mười lăm
ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Nghị
quyết này thay thế Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28-4-2004 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2. Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
mà có văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về bồi thường, thì việc giải
quyết được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
3. Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng phát sinh trước ngày 01-01-2006 (ngày Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu
lực), thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, các văn bản pháp luật
hướng dẫn áp dụng Bộ luật dân sự năm 1995 và hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP
ngày 28-4-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giải quyết.
4. Đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành mà trong đó có quyết
định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hướng dẫn trong Nghị quyết
này, thì không áp dụng Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm, trừ trường hợp việc kháng nghị bản án, quyết định có căn cứ
khác.
 Nơi nhận:
- Ủy ban thường vụ Quốc hội
- Ủy ban
pháp luật của Quốc hội;
- Ban Nội chính TW;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ 2 bản (để đăng Công báo);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Các TAND
tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh;
- Các thẩm phán và các đơn vị TANDTC;
- Lưu VP, Viện KHXX (TANDTC).
|
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
CHÁNH ÁN
Nguyễn Văn Hiện
|