BỘ VĂN HOÁ-THÔNG
TIN
******
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
36/2006/TT-BVHTT
|
Hà Nội, ngày 20
tháng 03 năm 2006
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN MỘT SỐ ĐIỀU CỦA QUY CHẾ ĐẶT TÊN, ĐỔI TÊN
ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG BAN HÀNH KÈM THEO NGHỊ ĐỊNH SỐ 91/2005/NĐ-CP
NGÀY 11 THÁNG 7 NĂM 2005 CỦA CHÍNH PHỦ
Thi hành Nghị định số
91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế
đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng, Bộ Văn hóa – Thông tin
hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế này như sau:
I. NGUYÊN TẮC
VỀ ĐẶT TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG ĐỐI VỚI DANH NHÂN CÓ TÊN GỌI KHÁC
NHAU (Điều 6 của Quy chế)
1. Trong lịch sử có một số danh
nhân có các tên gọi khác nhau (Ví dụ: Nguyện Huệ, Quang Trung; Nguyễn Sinh
Cung, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh;…), việc đặt tên được thực
hiện theo nguyên tắc sau:
Không đặt tên đường, phố hoặc
công trình công cộng bằng các tên gọi khác nhau của một danh nhân trên cùng một
địa bàn đô thị, trừ các trường hợp sau đây:
a) Địa phương là quê hương của
danh nhân (Ví dụ: Thành phố Vinh có thể đặt tên đường, phố hoặc công trình công
cộng bằng tên gọi Nguyễn Sinh Cung, Chủ tịch Hồ Chí Minh).
b) Địa phương gắn bó trực tiếp
với các mốc lịch sử cụ thể trong cuộc đời hoạt động của danh nhân (Ví dụ: thành
phố Quy Nhơn, thành phố Huế có thể đặt tên đường, phố hoặc công trình công cộng
bằng tên gọi Nguyễn Huệ, Quang Trung).
2. Căn cứ vào ý nghĩa lịch sử,
loại đô thị, vị trí, quy mô đường, phố hoặc công trình công cộng lớn hay nhỏ để
đặt tên cho tương xứng với tầm vóc của danh nhân.
II. ĐẶT TÊN
ĐƯỜNG, PHỐ (Mục 2 Chương I của Quy chế)
1. Từ “đường”, “phố” đã được sử
dụng phổ biến ở nhiều nước. Nhiều đô thị ở Việt Nam cũng sử dụng cả hai từ này.
Vì vậy, trong quy hoạch các khu đô thị mới và đặt tên đường, phố mới cần căn cứ
vào khoản 2, khoản 3 Điều 3 của Quy chế đặt tên, đổi tên
đường, phố và công trình công cộng để xác định cụ thể là “đường” hoặc là “phố”.
2. Không đổi từ “đường” thành từ
“phố” hoặc từ “phố” thành từ “đường” đã được viết trên biển tên đường, phố và
nhân dân đã quen gọi là “đường” hoặc “phố”, trừ trường hợp thật cần thiết.
III. DANH TỪ
CÓ Ý NGHĨA TIÊU BIỂU VỀ CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA, XÃ HỘI (khoản 2 Điều 10 của Quy chế)
Danh từ có ý nghĩa tiêu biểu về
chính trị, văn hóa, xã hội là những danh từ chung như Độc lập, Tự do, Dân chủ,
Thống nhất, Giải phóng, Đồng khởi… Những danh từ đó đều có thể sử dụng để đặt
tên đường, phố hoặc công trình công cộng.
IV. TÊN GỌI
NGÕ (KIỆT), NGÁCH (HẺM) (Điều
13 của Quy chế)
1. Từ “ngõ”, “kiệt”, “ngách”,
“hẻm” được sử dụng theo ngôn ngữ của địa phương, nên từng đô thị có thể sử dụng
các từ đó theo cách gọi của địa phương mình.
2. Đầu đường, đầu phố là nơi bắt
đầu từ số nhà nhỏ nhất.
3. Không đặt tên ngõ, ngách. Ngõ
được gọi theo biển số nhà nhỏ giữa hai số nhà đầu ngõ, kèm theo tên đường hoặc
phố.
Ví dụ: Ngõ ở giữa số nhà 99 và
101 phố Nguyễn Du được gọi là:
NGÕ 99
PHỐ NGUYỄN DU
Trong trường hợp ngõ đã có tên
gọi từ trước ngày Nghị định số 91/2005/NĐ-CP có hiệu lực, tên ngõ đã ăn sâu vào
tiềm thức của nhân dân mà không gây ảnh hưởng, tác động xấu trong xã hội thì có
thể giữ lại tên ngõ.
V. HỘI ĐỒNG
TƯ VẤN VỀ ĐẶT TÊN, ĐỔI TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG
1. Thành phần Hội đồng tư vấn
gồm đại diện các cơ quan quản lý: Sở Văn hóa – Thông tin, Sở Quy hoạch Kiến
trúc, Sở Giao thông Công chính, Sở Tài nguyên và Môi trường; một số nhà nghiên
cứu về các lĩnh vực có liên quan.
Hội đồng tư vấn do Sở Văn hóa –
Thông tin làm cơ quan thường trực, Tổ thư ký gồm thành viên của các cơ quan có
liên quan.
2. Hội đồng tư vấn có nhiệm vụ:
a) Tổng kiểm kê tên các đường,
phố và công trình công cộng của các đô thị thuộc tỉnh, thành phố đã được đặt
tên. Mỗi đô thị có hồ sơ riêng và tên được xếp theo loại (tên địa danh; danh từ
có ý nghĩa tiêu biểu; tên di tích lịch sử - văn hóa - danh lam thắng cảnh; tên
phong trào cách mạng, sự kiện lịch sử, chiến thắng tiêu biểu; tên danh nhân);
mỗi loại tên được xếp theo thứ tự A, B, C.
b) Phát hiện những tên đường,
phố trùng nhau, chưa đúng hoặc chưa hợp lý để đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố xem xét trình Hội đồng nhân dân cho sửa hoặc thay đổi.
c) Căn cứ vào các quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 8, Điều 9, Điều 10, Điều 11 của Quy chế đặt
tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng để nghiên cứu xác lập ngân
hàng tên (danh mục tên được lựa chọn, lưu trữ) để có thể sử dụng lâu dài cho
việc đặt tên đường, phố và công trình công cộng cần đặt tên ở các đô thi của
tỉnh, thành phố. Ngân hàng tên này cũng được xếp loại như nêu tại điểm a, khoản
2, Mục V, kèm theo hồ sơ đầy đủ của mỗi tên được đưa vào danh sách.
d) Lựa chọn những tên phù hợp
trong ngân hàng tên dự kiến đặt tên đường, phố hoặc công trình công cộng để Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố xem xét trình Hội đồng nhân dân tại các kỳ họp.
VI. HÌNH THỨC
LẤY Ý KIẾN VỀ DỰ KIẾN ĐẶT TÊN, ĐỔI TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG
1. Tổ chức hội nghị gồm đại diện
các cơ quan và các nhà khoa học về các lĩnh vực có liên quan để lấy ý kiến.
2. Công bố công khai dự kiến đặt
tên hoặc đổi tên đường, phố, công trình công cộng để nhân dân tham gia ý kiến.
3. Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phải lấy ý kiến Bộ Văn hóa – Thông
tin về dự kiến đặt tên, đổi tên công trình công cộng có quy mô lớn, có ý nghĩa quan
trọng, tên đường, phố trước khi trình Hội đồng nhân dân thành phố.
Hồ sơ gửi tới Bộ Văn hóa – Thông
tin (Cục Di sản văn hóa) gồm:
- Văn bản đề nghị của Ủy ban
nhân dân thành phố;
- Tóm tắt ý nghĩa của tên dự
kiến đặt cho đường, phố, công trình công cộng; mô tả tóm tắt về quy mô của
đường, phố hoặc công trình công cộng đó;
- Sơ đồ vị trí đường, phố, công
trình công cộng dự kiến đặt tên.
Cục Di sản văn hóa có trách
nhiệm nghiên cứu hồ sơ và trình Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin để có văn bản
trả lời trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ; trường hợp cần kéo dài
thời gian cũng không quá 15 ngày.
VII. BIỂN TÊN
ĐƯỜNG, PHỐ
1. Kích thước: Hình chữ
nhật 75cm x 40cm.
Đối với đô thị loại nhỏ, kích
thước biển có thể nhỏ hơn, nhưng phải đảm bảo thống nhất kích thước biển trong
cùng một đô thị.
2. Mầu sắc: Xanh lam sẫm;
đường viền trắng rộng 0,5cm cách mép ngoài của biển từ 3cm đến 3,5cm, bốn gốc
đường viền uốn cong đều vào bên trong.
3. Chất liệu: Sắt tráng
men hoặc nhôm lá dập, sơn chất liệu phản quang.
4. Chữ viết trên biển:
Kiểu chữ: Chữ in hoa không có
chân, mầu trắng; từ đường hoặc phố ở dòng trên, từ tên đường hoặc tên phố ở
dòng dưới và có cở chữ to hơn từ đường hoặc từ phố. Đô thị nào có lô-gô thì thể
hiện lô-gô mầu trắng lên góc cao bên trái biển.
5. Vị trí gắn biển:
- Biển được gắn ở đầu, ở cuối
đường, phố và ở các điểm giao nhau với đường, phố khác.
- Biển được gắn trên đầu cột sắt
đường kính tối thiểu 10cm, được chôn vững chắc, khoảng cách từ mặt đất đến đầu
cột cao khoảng 250cm, vị trí cột ở gần mép góc vuông vỉa hè của hai đường, phố
giao nhau; hai biển tên hai đường, phố giao nhau gắn vuông góc với nhau trên
một cột. Tại nơi gắn biển có cột điện ở vị trí thích hợp thì biển có thể được
gắn trên cột điện đó.
VIII. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
Thông tư này có hiệu lực sau 15
ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc,
các địa phương cần phản ánh về Bộ Văn hóa – Thông tin để kịp thời nghiên cứu,
sửa đổi, bổ sung./.
|
BỘ TRƯỞNG
Phạm Quang Nghị
|
CÔNG TY LUẬT TNHH QUỐC TẾ HỒNG THÁI VÀ ĐỒNG NGHIỆP
TRÂN TRỌNG!
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006248 hoặc E-mail: luathongthai@gmail.com
Trụ sở chính: LK9-38 Tổng cục 5, Tân Triều, Hà Nội (cuối đường Chiến Thắng, Thanh Xuân).
Trúc Quỳnh