1. Khái niệm trả lại đơn khởi kiện
Trả lại đơn khởi kiện là việc Tòa án sau khi xem xét thụ lý vụ án, đã trả lại đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo cho người khởi kiện bởi thấy việc khởi kiện chưa đáp ứng đủ các điều kiện khởi kiện nên không thể thụ lý vụ án.
2. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về trả lại đơn khởi kiện
Các trường hợp tòa án trả lại đơn khởi kiện (Khoản 1 điều 168 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011)
a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
b) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, xin thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;
c) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật này mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp có trở ngại khách quan hoặc bất khả kháng;
d) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện;
đ) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Toà án còn có thể trả lại đơn khởi kiện theo khoản 2 Điều 169 BLTTDS trong trường hợp “…Nếu họ không sửa đổi bổ sung theo yêu cầu của Toà án thì Toà án trả lại đơn kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện”.
Ngoài ra còn có thể thấy có thêm 3 trường hợp khiến đơn khơn khởi kiện bị tòa án trả lại:
Thứ nhất, người khởi kiện yêu cầu trả lại đơn khởi kiện trước khi Tòa án thụ lý vụ án. Khi trả lại đơn khởi kiện, Tòa án phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện. Quyết định của Chánh án Tòa án là quyết định cuối cùng, nếu người khởi kiện không đồngý với quyết định đó cũng không có quyền khiếu nại đếnTòa án cấp trên.
Thứ hai, hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày thông báo mà người khởi kiện vẫn không đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án như không nộp tiền tạm ứng phí và nộp lại biên lai choTòa án, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
Thứ ba, người khởi kiện không bổ sung đơn khởi kiện là trường hợp đã nhận được yêu cầu của Tòa án về bổ sung đơn khởi kiện nhưng họ kông tiến hành sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều169 BLTTDS. Ví dụ, người khởi kiện ghi không đúng, không đầy đủ tên và địa chỉ của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc không nộp các tài liệu chứng cứ thể hiện việc khởi kiện là có căn cứ, Tòa án yêu cầu bổ sung trong thời hạn 30 ngày nhưng họ đã không bổ sung.
Khi trả lại đơn kiện cho người khởi kiện, Tòa án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn kiện để người khởi kiện có căn cứ khiếu nại về việc trả lại đơn kiện.
Khiếu nại,khiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện được quy định tại điều 170 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011, người khởi kiện có quyền khiếu nại với chánh án tòa án đã trả lại đơn kiện trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày họ nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo do tòa án trả lại. Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phải ra một trong các quyết định sau:
- Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện,
- Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành thụ lý vụ án.
Đỗ Chinh-HILAP