Dượng tôi kết hôn với dì năm 1973 và về sống chung một nhà cùng vợ trước của dượng (ngôi nhà này là tài sản của dượng tôi). Đến 10 năm sau dì tôi và dượng khai hoang một mảnh đất và ở đó cho đến nay. Vậy dì có được xác nhận là vợ hợp pháp của dượng tôi hay không? Năm 2010 dượng tôi mất không để lại di chúc, vợ trước của dượng đòi chia 1/3 giá trị tài sản nơi dì đang ở. Vậy dì có được chia 1/3 tài sản mà vợ trước của dượng tôi đang ở hay không?
Thứ nhất, về vấn kết hôn
của dì và dượng bạn thuộc quy định tại mục 1 Thông tư liên tịch số
01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số
35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân
và gia đình quy định như sau: “Theo quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết
số 35 của Quốc hội, trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày
03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng
ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ
án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải
quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý là trong trường hợp sau khi
quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn, thì
quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu
chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ
ngày đăng ký kết hôn”.
Nghĩa vụ đăng ký kết hôn
chỉ đặt ra đối với trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày
03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001. Do đó, trường hợp dì bạn đã kết
hôn với chồng từ năm 1973 (tức là trước ngày 03/01/1987) thì theo quy định nói
trên, kể cả trường hợp bà chưa làm thủ tục đăng ký kết hôn thì hôn nhân của vợ
chồng dì bạn vẫn được công nhận và bà là vợ hợp pháp của chồng, có đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định.
Thứ hai, liên quan đến vẫn
đề chia di sản thừa kế. Theo quy định của Điều
31 Luật Hôn nhân gia đình năm
2000 thì vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật
thừa kế. Vì vậy, sau khi dượng bạn chết, dì bạn được hưởng một phần tài sản nằm
trong khối tài sản chung của hai vợ chồng và một phần tài sản được thừa kế từ
tài sản riêng của chồng. Việc phân chia di sản thừa kế phụ thuộc vào việc tài sản
thừa kế là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Như bạn trình bày, vợ
chồng dì bạn đã khai hoang một mảnh đất từ năm 1983 và sinh sống ổn định từ đó
đến nay. Do đó, về nguyên tắc mảnh đất này phải được xác định là tài sản chung
của vợ chồng bà và bà có quyền sử dụng, định đoạt đối với 1/2 giá trị quyền sử
dụng đất đó.
Theo quy định tại Điều 676 Bộ
luật Dân sự 2005 thì hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,
cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Có nghĩa là đối với 1/2 giá
trị mảnh đất còn lại mới là tài sản thừa kế và dì bạn cùng người vợ cả cũng như
những người khác thuộc hàng thừa kế thứ nhất chỉ có thể đòi quyền thừa kế đối với
khối tài sản này. Việc người vợ cả đòi chia 1/3 giá trị mảnh đất nơi dì bạn
đang ở là hoàn toàn không có cơ sở. Ngoài ra, vì dì bạn được pháp luật công nhận
là vợ hợp pháp của chồng nên bà không những có quyền thừa kế 1 phần đối với 1/2
giá trị mảnh đất nói trên mà còn có quyền thừa kế đối với 1 phần giá trị tài sản
hiện người vợ cả đang ở nếu tài sản đó được xác định là tài sản thừa kế do chồng
bà để lại. Do chồng bà không để lại di chúc nên bà có thể làm đơn yêu cầu tòa
án chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật.