Hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm trên
thực tế có thể thấy rằng, việc chưa tuân thủ nguyên tắc “độc lập khi xét xử” được
biểu hiện khá đa dạng song có thể khái quát ở những biểu hiện chủ yếu sau:
Thứ nhất, hoạt động xét xử chủ
yếu là hoạt động của Thẩm phán, Hội thẩm chưa phát huy hết quyền năng được giao
khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Vị trí, vai trò của Hội thẩm không chỉ được ghi nhận ở
nguyên tắc trên mà còn được quy định bằng một loạt các nguyên tắc và các quy định
khác trong Bộ luật tố tụng dân sự và trong Bộ luật tố tụng hình sự như thực hiện
chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia, Tòa án xét xử tập thể, Hội thẩm phải từ chối
tiến hành tố tụng nếu thuộc một trong các trường hợp nhất định, khi xét xử Hội
thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Theo quy định của pháp luật, vai trò vị trí của
Hội thẩm chỉ phát sinh kể từ thời điểm Chánh án phân công và Tòa án có quyết định
đưa ra vụ án ra xét xử. Kể từ đây, Hội thẩm được quyền nghiên cứu hồ sơ để xác
định thẩm quyền xét xử.
Tại phiên tòa, cũng như Thẩm phán, Hội thẩm được quyền xét hỏi để làm rõ
các tình tiết khách quan của vụ án, được thảo luận và biểu quyết các vấn đề giải
quyết vụ án. Trong quá trình nghị án, Hội thẩm không chỉ có quyền tham gia mà
còn có quyền đưa ra ý kiến để thống nhất quan điểm tại phòng nghị án để tuyên
án. Những quyền năng trên của Hội thẩm nhân dân mặc dù đã được pháp luật ghi nhận
và quy định rõ ràng, nhưng trên thực tế, Hội thẩm chưa phát huy được quyền năng
của mình, trong nhiều phiên xét xử, việc tham gia của Hội thẩm chỉ mang tính
hình thức, thủ tục mà chưa thể hiện được vai trò của người đại diện của quần
chúng nhân dân trước pháp luật. Thông thường, đối với những vụ án không phức tạp,
Hội thẩm chỉ đến nghiên cứu hồ sơ ngay buổi trước sát ngay mở phiên tòa. Trong
điều kiện ấy, Hội thẩm chỉ nghiên cứu bản cáo trạng hoặc là không nghiên cứu hồ
sơ nhưng vẫn tiến hành hoạt động xét xử tại phiên tòa. Trong trường hợp này, Hội
thẩm sẽ không bị lệ thuộc vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án nhưng
lúng túng không triển khai được mô hình để điều tra, đánh giá chứng cứ tại
phiên tòa, không xác định được những vấn đề cần phải chứng minh của vụ án.
Chính vì thế, Thẩm phán lại phải tóm tắt nội dung vụ án, gợi ý cho Hội thẩm những
vấn đề cần hỏi. Khi tham gia xét hỏi, do nắm chắc nội dung vụ án nên Thẩm phán
chủ tọa là người "độc diễn", hỏi hết các vấn đề, Hội thẩm không có gì
để hỏi. Có nhiều vụ án, Hội thẩm không hề tham gia xét hỏi.
Khi nghị án, Thẩm phán cũng là người đưa ra ý kiến gợi ý là nên giải quyết
theo hướng này hướng khác, Hội thẩm là người biểu quyết theo. Sau đó chủ tọa
thay mặt hội đồng xét xử tuyên án. Sự quá "chủ động" của Thẩm phán
làm cho Hội thẩm ở vào tình trạng lệ thuộc, thiếu chủ động trong quá trình chứng
minh tội phạm và cũng chính vì thế khi đưa ra phán quyết, Hội thẩm cũng chỉ là
người quyết định theo ý chí của Thẩm phán. Như vậy, tính độc lập xét xử không được
bảo đảm. Pháp luật đã ghi nhận Hội thẩm có quyền độc lập trong xét xử và chỉ
tuân theo pháp luật nhưng bản thân một số vị Hội thẩm không phát huy được quyền
này dẫn đến tình trạng Hội thẩm tham gia xét xử chỉ là hình thức, mọi phán quyết
đều phụ thuộc vào ý chí Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.

Nguyên nhân vì đâu?
Nguyên nhân vì đâu? Có một câu hỏi đặt ra là ai quản lý, điều hành Hội thẩm
nhân dân? Thực tế, do chưa có cơ chế quản lý, điều hành nên sự phân công nhiệm
vụ cho Hội thẩm chưa được chú trọng, làm giảm chất lượng xét xử và gây bị động,
lúng túng cho các cấp Tòa án. Ở địa phương, theo giới thiệu của Mặt trận tổ quốc,
mỗi nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân huyện đều tiến hành bầu 18-20 Hội thẩm nhân dân
để tham gia xét xử với Tòa án theo quy định của pháp luật. Số Hội thẩm được bầu
hầu hết là những cán bộ đương chức đang công tác tại các cơ quan nhà nước, ở
các tổ chức chính trị-xã hội như: Liên đoàn Lao động, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội
Chữ thập đỏ...; một số là giáo viên, cán bộ Đoàn.
Điều đáng quan tâm là, trong nhiều nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân, đa số Hội
thẩm là cán bộ đương chức ít tham gia xét xử. Thậm chí, có những Hội thẩm trong
suốt một nhiệm kỳ 5 năm tham gia xét xử được chục vụ án. Lý do thường là đương
chức bận công tác, hoặc không có kiến thức về chuyên môn nên tự ti, mặc cảm từ chối
lời mời của Tòa án. Thực tế, mỗi nhiệm kỳ thường thấy có ít nhất "một cặp"
Hội thẩm là cán bộ hưu trí khá tích cực với việc tham gia xét xử. Không dưới
2/3 số bản án đã được xét xử trong một nhiệm kỳ do các Hội thẩm là cán bộ hưu
trí tham gia. Trung bình mỗi tháng, lịch xét xử được bố trí từ giữa tháng đến cuối
tháng, từ hình sự đến dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động. Trường
hợp mà các Hội thẩm này không thể tham gia xét xử được thì các Thẩm phán thường
rơi vào thế bị động. Để xử lý tình huống này, Thư ký Tòa án thường gọi điện
“tìm” và khó khăn lắm mới có thể mời được một Hội thẩm còn đương chức tham gia.
Nhiều trường hợp, trước lúc mở phiên tòa, tất cả những người tham gia tố tụng đều
đã có mặt thì Hội thẩm vì những lý do đột xuất không tham dự được, Tòa án lại
phải gọi điện nhờ Hội thẩm khác “chữa cháy”. Gần như, tham gia xét xử của Hội
thẩm trong mỗi phiên tòa mới chỉ nhằm mục đích chủ yếu là cho đủ thành phần
theo luật định. Những trường hợp này, phiên tòa khai mạc rất muộn và thường kéo
dài. Nếu không có vị Hội thẩm nào tham gia thì đương nhiên phiên tòa bị hoãn lại,
gây phiền toái cho người dân, ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của tòa án khi xét xử.
Quá trình tố tụng, do hạn chế về kiến thức pháp luật và không nắm rõ tình tiết
vụ án nên có những Hội thẩm đưa ra nhiều câu hỏi không có trọng tâm, ảnh hưởng
chất lượng phiên tòa, thậm chí gây cản trở cho những người tham dự phiên tòa.
Tuy nhiên, trong một số trường có Thẩm phán vẫn mời Hội thẩm "lẽ
ra"không được tham gia- không đủ điều kiện tham gia xét xử; đến khi vụ án
bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét lại thành phần hội
đồng xét xử ở cấp sơ thẩm và thấy không đúng nên quyết định hủy án, giao vụ án
về cấp sơ thẩm xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. Do cách vận dụng
máy móc như vậy, một số vụ án tuy không mấy phức tạp nhưng phải xử đi, xử lại
nhiều lần, gây hoang mang cho những người có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Rút
kinh nghiệm ở những lần bị hủy án, cấp sơ thẩm khi gặp các trường hợp như trên
thì Tòa án tiến hành làm việc với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và thống nhất cách ghi tên, chức vụ của Hội thẩm vào bản
án: phần tên của vị Hội thẩm có ghi chức vụ, đơn vị công tác nhưng kèm chú thích
"nguyên là cán bộ Đoàn", "nguyên là giáo viên"...tránh rắc
rối sau này.
Thứ hai, Thẩm phán và Hội thẩm
quá lệ thuộc vào kết quả điều tra ban đầu, tức là lệ thuộc những thông tin, tài
liệu có trong hồ sơ vụ án. Chúng ta biết rằng, Tòa án Việt Nam không có chức năng điều
tra, xây dựng hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, nhiệm vụ của Hội đồng xét xử là phải
kiểm tra, đánh giá các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xem các kết
luận trước đó có cơ sở hay không. Nhiều vụ án, Hội đồng xét xử tin vào kết quả
điều tra có trong hồ sơ vụ án nên có thành kiến, từ đó đặt ra những câu hỏi
mang tính áp đặt buộc. Hoặc Hội đồng xét xử đặt ra những câu hỏi mang tính mớm
cung như bị cáo đã từng làm việc này, việc kia đúng không? Khi có mâu thuẫn
trong lời khai của những người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử thay vì việc
phải vạch ra sự bất hợp lý trong lời khai của họ thì lại lấy lời khai của họ trước
đó làm "chuẩn mực"để hướng những người này khai phù hợp với "chuẩn
mực" đó. Quá trình chứng minh tội phạm là nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố
tụng nhưng cũng là quyền của những người tham gia tố tụng. Trong trường hợp
này, Hội đồng xét xử nên tạo điều kiện để họ thực hiện quyền tự bào chữa, quyền
tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Thứ ba, có sự thống nhất chứng
cứ và định hướng trước việc xét xử. Đó là việc họp ba ngành Công an, Viện kiểm sát, Tòa án
để thống nhất áp dụng tội danh, họp bàn án trong nội bộ cơ quan, thỉnh thị án cấp
trên trước khi xét xử. Việc họp ba ngành Công an, Viện kiểm sát và Tòa án trước
khi xét xử không được quy định trong BLTTDS.
Thứ tư, có sự tác
động từ các nhân tố bên ngoài đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
+ Sự tác động của Chánh án:
Chánh án có ảnh hưởng đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Thông qua
hoạt động họp bản án, nhiều Chánh án đã can thiệp cụ thể vào việc xét xử. Ngoài
ý nghĩa tích cực hạn chế được sự sai sót trong xét xử thì việc tác động của
Chánh án đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm đều vi phạm nguyên tắc.
Chánh án là người quản lý đơn vị, chỉ đạo của Chánh án, Thẩm phán không thể
không nghe. Nếu chỉ đạo đúng thì không sao, nhưng có trường hợp lạm dụng sự chỉ
đạo để tác động trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
+ Sự tác động của cấp ủy Đảng:
Sự tác động này không mang tính thường xuyên nhưng rõ ràng trong thực tế
có nhiều vụ án, sự tác động của cấp ủy Đảng đã dẫn đến việc xét xử không chính
xác nếu không muốn nói là sai pháp luật. Luật tố tụng đã quy định khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đứng về lãnh
đạo địa phương, lãnh đạo ngành, người ta có quyền có ý kiến. Nhưng trước ý kiến
đó, người Thẩm phán phải xem xét và làm đúng theo pháp luật. Và sự tác động từ
bên ngoài không thể là không có. Người tác động không đúng đến hoạt động xét xử
của Tòa án rõ ràng vi phạm pháp luật nhưng kết quả Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
sai phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Chưa có con số thống kê về số vụ án xét xử
có sự tác động từ cấp ủy Đảng nhưng thực tế cấp ủy Đảng đã can thiệp khá nhiều
vào hoạt động xét xử của Tòa. Đó là sự can thiệp của cá nhân, vì quyền lợi cá nhân,
nhân danh Đảng, nhân danh tổ chức để tác động mà hoàn toàn không theo nguyên tắc
lãnh đạo của Đảng và vì lợi ích của quốc gia. Sự tác động là vi phạm nguyên tắc
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm vẫn không đứng
ngoài sự tác động đó. Thẩm phán, Hội thẩm trước khi họ là quan Tòa thì họ cũng
là con người với những lo toan rất đỗi bình thường về lương bổng, về nhà cửa, về
vị trí trong xã hội. Các cơ quan, người tiến hành tố tụng tuy nói là độc lập
nhưng họ vẫn phải giữ mối quan hệ tốt với các cơ quan khác trên địa bàn như cơ
quan Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân. Đặc biệt những trường hợp Thẩm
phán, Hội thẩm là thành viên của cấp ủy Đảng thì quan hệ giữa Thẩm phán và cấp ủy
Đảng như là quan hệ giữa "cấp trên, cấp dưới". Hiện tại, muốn chỉ đạo,
cấp ủy thường "nêu vấn đề" chứ không "duyệt án" như trước,
chỉ vậy thôi nhưng chẳng có mấy người làm khác. Từ đó, thấy rõ những vấn đề còn
hạn chế tính độc lập trong xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, tổ chức và
quyền lực của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
+ Sự tác động của các cá nhân,
tổ chức khác: Đây là sự tác động thường xuyên đến hoạt động xét xử của Tòa án.
Trước hết là sự tác động của những người tham gia tố tụng, họ có thể tác động
trực tiếp hay gián tiếp thông qua các cá nhân có chức vụ quyền hạn. Mục đích của
sự tác động nhằm hướng hoạt động xét xử làm sao đảm bảo tối đa lợi ích của họ.
Lợi ích này có thể là chính đáng, có thể không, tuy nhiên, phần lớn, mọi sự tác
động đều nhằm mục đích giảm nhẹ hình phạt, được hưởng án treo, tăng hoặc giảm mức
bồi thường thiếu căn cứ pháp luật. Cách thức tác động thường là dùng tiền, vật
có giá trị để "hối lộ"cho những người tham gia xét xử vụ án. Hạn hữu
có những trường hợp đe dọa, ép buộc Hội đồng xét xử phải xử theo lợi ích của họ
nếu không muốn nhận lấy hậu quả xấu từ phía bản thân và gia đình. Những người
tham gia tố tụng cũng có thể thông qua các cá nhân có chức vụ, quyền hạn mà họ
quen biết để tác động như Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc cấp trên. Thủ
trưởng cơ quan điều tra, Chánh án cấp trên hoặc những cá nhân khác. Sự tác động
này đã làm cho việc xét xử không được khách quan và chính xác, xét xử không
nghiêm minh.
+ Sự tác động của cơ quan báo chí,
dư luận: Có rất nhiều vụ án đã được báo chí đề cập đến và trong thời đại ngày
nay -thời đại bùng nổ, công khai mọi thông tin, hoạt động xét xử của Tòa án
không nằm ngoài "sự quan tâm"của báo chí. Những vụ án Tòa xét xử
"nhẹ"hoặc là xét xử chưa chính xác làm lợi cho một số người nhất định
"được" báo chí quan tâm. Vấn đề đặt ra là khi có kháng cáo, kháng nghị,
bị hủy thì cấp sơ thẩm xét xử lại như thế nào. Có nhiều vụ án, cấp sơ thẩm xét
xử độc lập theo quan điểm của mình trên cơ sở pháp luật nhưng cũng có những vụ
án xét xử lại làm theo hướng "làm dịu"sự phản ứng của báo chí. Xét
cho cùng, báo chí cũng chỉ là quan điểm tranh luận của cá nhân, thậm chí đó là
quan điểm của tập thể, quan điểm đó có thể đúng và cũng có thể chưa chính xác.
Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử không dựa theo pháp luật và bị tác động bởi dư
luận, báo chí thì rõ ràng vi phạm nguyên tắc.Cũng như những tác động khác từ
bên ngoài, tác động của báo chí đến hoạt động xét xử là khách quan, không thể
không có, người ta có quyền bày tỏ quan điểm, bình luận về các quyết định của
Tòa án. Thẩm phán và Hội thẩm cần lắng nghe dư luận nhưng khi xét xử phải tuân
theo pháp luật.

Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp qua tổng đài: 19006248 hoặc E-mail: luathongthai@gmail.com
Trụ sở chính: LK9-38 Tổng cục 5, Tân Triều, Hà Nội (cuối đường Chiến Thắng, Thanh Xuân).
Trang Nguyễn
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn của chúng tôi:
- Dịch vụ Luật sư lĩnh vực dân sự - 0982.033.335
- Dịch vụ Luật sư lĩnh vực Hình sự - 0982.033.335
- Dịch vụ pháp lý lĩnh vực Đất đai - 0982.033.335
- Dịch vụ tư vấn nhân sự và quản lý lao động - 0982.033.335
- Dịch vụ pháp lý lĩnh vực Doanh Nghiệp - 0982.033.335