Tôi năm nay 30 tuổi, tôi muốn nhận con nuôi vậy tôi có đủ điều kiện nhận nuôi con nuôi không và tôi phải đến cơ quan nào để thực hiện công việc trên?
I. Căn cứ pháp lý
- Luật nuôi con nuôi năm 2010.
II. Nội dung tư vấn
19004268
Chúng tôi xin tư vấn cho anh như sau:
1. Thẩm quyền
đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước
Thẩm quyền
đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước được quy định tại khoản 1
Điều 9 Luật nuôi con nuôi năm 2010 và được cụ thể hóa tại khoản 1
Điều 2 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP. Cụ thể như sau:
a. Đối với
trẻ em có cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ
- UBND xã,
phường, thị trấn (UBND cấp xã) nơi thường trú của người được nhận
làm con nuôi có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi.
- Trường hợp
cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng làm con nuôi; cô,
cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi hoặc có sự thỏa thuận
giữa người nhận con nuôi với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của
trẻ em được nhận làm con nuôi thì UBND cấp xã nơi thường trú của
người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.
2. Điều kiện
nuôi con nuôi
a. Đối với
người được nhận làm con nuôi
- Về độ tuổi
:
Khoản 1 và 2
Điều 8 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định: người được nhận làm
con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi nếu được cha dượng, mẹ kế hoặc được cô, cậu, dì, chú, bác
ruột nhận làm con nuôi.
- Về nơi cư
trú :
Người được
nhận làm con nuôi có thể cư trú tại gia đình hoặc cư trú tại cơ
sở trợ giúp xã hội.
- Đối tượng
trẻ em được khuyến khích nhận làm con nuôi:
Nhà nước
khuyến khích nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt làm con nuôi.
Trường hợp
trẻ em bị bỏ rơi tại các nơi công cộng hoặc cơ sở y tế mà chưa
được chuyển vào chăm sóc nuôi dưỡng ở cơ sở trợ giúp xã hội,
nếu có người nhận tạm thời nuôi dưỡng cũng có thể được nhận
làm con nuôi. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi tại cơ sở y tế, cơ sở
y tế đó phải thông báo cho UBND cấp xã nơi đặt trụ sở của cơ sở y
tế để thực hiện các thủ tục cần thiết đối với trẻ em bị bỏ rơi
theo quy định pháp luật về hộ tịch, sau đó mới tiến hành đăng ký việc
nuôi con nuôi. Trường hợp xác định được cha mẹ đẻ của trẻ em, UBND
cấp xã có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi phải tiến hành
lấy ý kiến đồng ý của cha mẹ đẻ về việc cho trẻ em làm con nuôi
trước khi giải quyết cho trẻ em làm con nuôi.
Nghiêm cấm việc
các cơ sở y tế cấp Giấy chứng sinh giả mạo để đăng ký khai sinh cho
con nuôi thành con ruột, nhằm lẩn tránh thủ tục đăng ký nuôi con
nuôi. Trong trường hợp UBND cấp xã phát hiện được hiện tượng này
cần ngăn chặn kịp thời.
b. Đối với
người nhận con nuôi
- Điều kiện
nuôi con nuôi:
Theo quy định
tại khoản 1 Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010, người nhận con nuôi
phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi
trở lên; có đạo đức tốt, có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ
ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi.
Trường hợp
cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng
làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con
nuôi thì không áp dụng điều kiện về khoảng cách độ tuổi và điều
kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở. Vì đây là những trường hợp nhận
con nuôi nhằm mục đích bảo đảm cho trẻ em được sống trong gia đình
gốc của mình.
Một người
chỉ được nhận làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả
hai người là vợ chồng. Nếu một trong hai người là vợ chồng nhận
con nuôi thì sẽ không được giải quyết; hai người chung sống với
nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn hoặc hai người cùng
giới tính chung sống với nhau mà cùng xin nhận một trẻ em làm con
nuôi thì cũng không được giải quyết.
- Các trường
hợp không được nhận con nuôi:
Khoản 2 Điều
14 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định các trường hợp không được
nhận con nuôi, bao gồm: người đang bị hạn chế một số quyền của cha,
mẹ đối với con chưa thành niên; đang chấp hành quyết định xử lý
hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; đang chấp hành
hình phạt tù; người chưa được xóa án tích về một trong các tội
cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người
khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu,
người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp
người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm
đoạt trẻ em.
Đây là những
trường hợp người nhận con nuôi không có đủ điều kiện thực tế để
nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi, vì họ đang sống trong cơ sở giáo
dục, cơ sở chữa bệnh hoặc trong tù, hoặc họ đã từng có hành vi
phạm tội ảnh hưởng đến nhân phẩm, tư cách đạo đức.
Riêng đối với
người đang chấp hành hình phạt tù (đối với mọi hành vi phạm tội
chứ không chỉ riêng đối với các tội nêu trên), nếu người đó đang
được tạm hoãn thi hành án thì cũng không được phép nhận con nuôi.
Vì thông thường, việc tạm hoãn thi hành án chỉ được thực hiện
trong thời hạn nhất định. Nếu giải quyết cho nhận con nuôi thì khi
người đó chấp hành hình phạt tù sẽ không bảo đảm được điều kiện
thực tế để nuôi dưỡng con nuôi.
Trên đây là những tư vấn từ Công ty luật TNHH Quốc tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp chúng tôi.