Hiện nay, án được Tòa giải quyết liên quan đến những tranh chấp về phân chia di sản thừa kế là một trong những loại án dân sự được thụ lý rất nhiều và có tính chất phức tạp. Mặc dù, Bộ luật Dân sự năm 2015 nói riêng và pháp luật về thừa kế nói chung đã có những thay đổi nhất định so với Bộ luật Dân sự trước đó, tuy nhiên trên thực tế trong quá trình giải quyết tranh chấp vẫn bộc lộ những hạn chế từ việc áp dụng các quy định của pháp luật. Hãy cùng Luật Hồng Thái tìm hiểu trong bài viết này nhé!
1.
Bất cập trên thực tế
Thứ nhất, về quan hệ thừa kế
giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
Theo quy định tại Điều 654
Bộ luật Dân sự năm 2015 về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế “Con
riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như
cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản
theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”.
Điều này có nghĩa việc xác định con riêng với bố dượng, mẹ kế có được hưởng thừa
kế của nhau hay không dựa trên quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau. Nếu hai
phía không có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng lẫn nhau thì không được thừa kế của
nhau. Tuy nhiên quan hệ “chăm sóc, nuôi dưỡng như cha mẹ con” là một
phạm trù rất trừu tượng, không thể xác định một cách cụ thể, rõ ràng. Quy định
này rất chung chung nên dẫn đến bất cập trong thực tiễn áp dụng, tiêu chí để
các nhà làm luật áp dụng hoàn toàn khác nhau do không có sự thống nhất về căn cứ
đánh giá, thời gian nuôi dưỡng, mức độ nuôi dưỡng, chăm sóc như thế nào.
Thứ hai, về thời hiệu
yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại
Theo quy định tại khoản 3, Điều 623,
Bộ luật Dân sự năm 2015 “Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Trong thực tiễn có thể phát sinh vấn đề là đến thời điểm hết thời hiệu yêu cầu
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại nhưng vẫn
chưa đến thời hạn người để lại di sản phải thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà
họ đã thiết lập trước đó (khi thời hạn mà người để lại di sản phải thực hiện
nghĩa vụ lớn hơn 3 năm). Do đó, có thể thấy, pháp luật Việt Nam vẫn chưa dự
liệu được trường hợp này khi quy định về thời hiệu áp dụng trên thực tế.
Ví dụ: Tháng 2/2017, ông A vay của
ông B 600 triệu đồng. Trong hợp đồng vay tiền ghi rõ thời hạn trả nợ là tháng
2/2027 (10 năm). Đến tháng 2/2018, ông A chết. Như vậy, ông B có thời hạn 03
năm (đến tháng 2/2021) để làm đơn yêu cầu người thừa kế của ông A thực hiện
nghĩa vụ tài sản của người chết để lại. Tuy nhiên, người thừa kế của ông A
không thực hiện nghĩa vụ tài sản của ông A với lý do tháng 2/2027 mới đến thời
hạn trả nợ của ông A (ghi trong hợp đồng vay tiền). Do đó, đối với trường hợp
này, thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người
chết để lại mâu thuẫn với thời hạn trả nợ đã được ông A và ông B thỏa thuận
trong hợp đồng vay tiền. Nếu ông A yêu cầu người thừa kế của ông B trả nợ trong
thời hạn 3 năm thì chưa đến thời hạn trả nợ hợp đồng. Nếu ông B chờ đến thời
hạn trả nợ của ông A (tháng 2/2027) mới yêu cầu thì hết thời hiệu yêu cầu người
thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết.
Thứ
ba, về thừa kế thế vị
Theo Điều 677 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thừa kế thế vị: “Trường
hợp con của người để lại di sản thừa kế chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thừa kế thì cháu được hưởng phần di sản thừa kế mà cha hoặc
mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản thừa kế thì chắt được hưởng phần di sản thừa kế mà
cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.” Tuy nhiên, quy định này
khi áp dụng trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn trong việc xác định thời điểm
chết “cùng thời điểm” do chưa có quy định hướng dẫn cụ thể cho vẫn đề này trong
nhiều trường hợp nhất định. Việc xác định thời điểm này là rất quan trọng để có
thể xác định chính xác chủ thể khác có được thừa kế thế vị hay không.
Ngoài ra, nếu đọc điều luật, chúng ta có thể hiểu, khi cha hoặc mẹ của
cháu hoặc chắt không được quyền hưởng di sản thừa kế của ông, bà hoặc cụ do có
một trong các hành vi được nêu tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự năm
2015 (như bị kết án về hành vi ngược đãi nghiêm trọng người cha thì họ sẽ
không được hưởng di sản thừa kế của người cha….) sẽ kéo theo cháu hoặc chắt
cũng không thể được thay thế vị trí của cha mẹ để hưởng di sản thừa kế của ông,
bà hoặc cụ. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì cha mẹ của cháu hoặc chắt
phải là người được quyền hưởng di sản thừa kế thì cháu hoặc chắt mới được hưởng
thế vị thay cha, mẹ khi cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để
lại di sản thừa kế. Điều này dẫn đến tình trạng “quýt làm cam chịu” và thực
tế nó không còn phù hợp với xu thế phát triển của Việt Nam.
2. Kiến
nghị hoàn thiện pháp luật
Các
quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 mặc dù có nhiều điểm mới, bổ sung, tháo gỡ
những khó khăn bất cập trên thực tế nhưng vẫn tồn đọng một số vấn đề chưa được
quy định rõ ràng, cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và hoàn thiện để việc giải quyết các tranh chấp về
thừa kế được thực hiện có hiệu quả, thuận lợi, dễ dàng trên thực tế.
Thứ nhất, hoàn thiện quy định về quan
hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
Tác
giả kiến nghị nên bổ sung quy định tại Điều 654 Bộ luật Dân sự năm 2015 về quan
hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế theo hướng quy định thêm khoản quy
định rõ ràng căn cứ đánh giá, thời gian nuôi dưỡng, mức độ nuôi dưỡng, chăm sóc
như thế nào để con riêng được hưởng thừa kế theo pháp luật của bố dượng, mẹ kế.
Điều này đảm bảo thống nhất các quy định của pháp luật cũng như tránh gây những
tranh cãi trong quá trình áp dụng luật trên thực tiễn.
Thứ hai, hoàn thiện quy định về thời
hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại
Tác giả kiến nghị bổ sung khoản 3
Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau: “Thời
hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại
là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Trong trường hợp thời hạn người để lại
di sản phải thực hiện nghĩa vụ hơn 3 năm thì xác định thời hạn đó là 03 năm kể
từ thời điểm mở thừa kế”. Quy định này đảm bảo được quyền lợi của người có
quyền yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ.
Thứ ba, hoàn thiện quy định về thừa kế thế
vị
Pháp luật Việt Nam cần có một
văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về căn cứ xác định thời điểm chết của
người để lại di sản thừa kế và người được hưởng di sản thừa kế. Đó có thể là thời
điểm Cơ quan pháp y xác nhận nạn nhân chết, cũng có thể là thời điểm quyết định
tuyên bố người đó chết có hiệu lực.
Ngoài ra, trường hợp cha hoặc
mẹ của cháu hoặc chắt có một trong các hành vi vi phạm được nêu tại khoản 1 Điều
621 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cháu hoặc chắt không phải chịu trách nhiệm đối
với hành vi do cha, mẹ của họ gây ra. Cháu hoặc chắt của người để lại di sản thừa
kế không có nghĩa vụ gánh chịu những hành vi độc lập của cha mẹ gây ra trong
quan hệ này.
Trên đây là nội
dung tư vấn pháp luật của Luật Hồng Thái về bất cập trên thực tế và kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật.
Chúng tôi luôn đồng hành,
hỗ trợ cùng bạn đọc giải quyết tất cả các vấn đề pháp lý. Nếu có bất kỳ vướng mắc vui lòng liên
hệ 0976933335 - 0982033335 hoặc qua E-mail: luathongthai@gmail.com để
được hỗ trợ nhanh nhất.
Trụ sở chính: LK9-38
Tổng cục 5, Tân Triều, Hà Nội (cuối đường Chiến Thắng, Thanh Xuân).
Bạn cũng có thể tham khảo
thêm thông tin các dịch vụ tư vấn của chúng tôi:
- Dịch vụ Luật sư lĩnh vực
dân sự - 0976.933.335
- Dịch vụ Luật sư lĩnh vực
Hình sự - 0982.033.335
- Dịch vụ pháp lý lĩnh vực
Đất đai - 0976.933.335
- Dịch vụ tư vấn nhân
sự và quản lý lao động - 0988.587.987
- Dịch vụ pháp lý lĩnh vực
Doanh Nghiệp - 0962.893.900
- Dịch vụ Luật sư lĩnh vực
Hôn nhân và gia đình - 0976.933.335
HD